Trang trại chuyên sâu tại Bali, sản xuất tôm trong hệ thống Biofloc.
Hầu hết các trang trại nuôi tôm ở Bali đều sử dụng khí và hoạt động dưới sự sản xuất thâm canh
Tóm tắt: Mặc dù Bali là một điểm đến du lịch, nhưng một số trại tôm nhỏ được quản lý bởi gia đình tọa lạc tại đây. Trại tôm Ndaru Luat Setio tại Kubu được nuôi mà không mắc bệnh Litopenaeus vannamei trong hồ nhờ vào việc áp dụng công nghệ biofoc cơ bản với việc không thay nước. Sục khí nhiều và kiểm soát tốt việc duy trì oxy hòa toàn duy trì chất lượng nước trong môi trường chăn nuôi. Nông trại đã sản xuất được 45-55 tấn/ chu kỳ kể từ năm 2009 một cách ổn định và bền vững.
Đảo Bali tại Indonesia là một điểm đến du lịch nổi tiếng. Tuy nhiên, một vài cơ sở nuôi trồng thủy sản, bao gồm trang trại nuôi tôm nhỏ được đặt ở đây- chủ yếu ở bờ biển phía Bắc. Phần lớn các trại tôm có chủ sở hữu là gia đình và hoạt động theo sản xuất thâm canh, còn kiểu trải dài trên một vùng đất thì khá hạn chế. Trang trại tôm Ndaru Laut Setio tại Kubu, nằm ở bờ biển bắc của Bali không xa khu vực lặn. Được nuôi trong hồ đặc trưng không mắc bệnh Litopenaeus vannamei
Nông trại
12 hồ với kích thước khác nhau, từ 600- 2800m2 hoạt động với hai bể nước chiếm 16% tổng diện tích ao nuôi, chỉ hơn 2ha. Tất cả các hồ đều ngăn với nhau hoàn toàn bằng bê tông và hầu hết hình chữ nhật với độ sâu trung bình 1.2m. Hồ có hệ thống thoát nước trung tâm.
Cũng như các ruộng bậc thang, nông trại tôm thường được xây dựng ở một dốc ngay mép của bờ biển bắc. Nước biển từ cửa biển được bơm vào hồ nước ở mức cao nhất. Điều này cho phép kỹ thuật viên có thể phân phối nước cho các ao nuôi bằng trọng lực.
Công nghệ Biofloc
Các ao áp dụng công nghệ biofoc và không thay nước. Ngũ cốc và mật được thêm vào môi trường nước để làm tăng tỉ lệ carbon- nito (C:N), trong khi thêm việc sục khí để hỗ trợ biofloc treo trong cột nước.
Ban đầu, thức ăn dạng hạt được làm từ bột lúa mì được sử dụng từ 10-20% khối lượng thức ăn cung cấp thông thường, nhưng sau đó chỉ đường được đưa vào để tăng tỉ lệ C:N. Hàng ngày,hồ nhận được khoảng 1-2 ppm mật. Các biofoc được duy trì dưới 12mL/L. Một sản phẩm thân thiện với con người nổi tiếng đã được dùng thử trong suốt chu kỳ, nhưng ảnh hưởng của nó không rõ ràng.
Các hệ thống thông khí giúp di chuyển các biofloc thừa và bùn đến trung tâm của ao hoặc những địa điểm được chỉ định khác để loại bỏ ra ngoài khi cần thiết. Trong khía cạnh này, các vị trí của các thiết bị sục khí sẽ hỗ trợ 400kg/ mã lực năng suất vận chuyển, điều này rât quan trọng. Một khả năng vận chuyển điển hình trong hệ trống biofloc là 600kg/ mã lực
Môi trường
Vì máy thông khí được cung cấp, và oxy hòa tan được kiểm soát tốt, chất lượng nước trong môi trường nuôi trồng được duy trì trong giới hạn bình thường. Khối lượng Biofloc được kiểm soát dưới 10ml/ l, khi được đo bằng Imhoff hình nón. Nhiệt độ dao động từ 27-33 ° C trong suốt chu kỳ, trong khi đó, độ mặn được giữ giữa 33 -38 ppt. Tuy nhiên, tại thời điểm gần thu hoạch, độ mặn có thể vượt quá 40 ppt.
Mức độ oxy hòa tand được giữ cao hơn 4ppm, với pH và các thông số khác trong vòng chấp nhận được. Lúc thu hoạch, nitrate có thể đạt đến 100ppm, và ammonia và nitrite sẽ dao động từ 8-10 ppm.
Các chu kỳ canh tác được lên kế hoạch để tránh những tháng có nhiệt độ thấp, ở Bali thường là Tháng Một, Tháng Hai, Tháng Bảy, Tháng Tám. Tháng Một và tháng Hai mát, mùa mưa không ổn định, trong khi tháng Bảy và tháng Tám, nhiệt độ nước biển có thể đoán được dưới 26 ° C. Những điều kiện này đóng góp vào khả năng bộc phát của virus.
Sản xuất
Dữ liệu sản xuất nông nghiệp từ năm 2012 được trình bày ở bảng 1. Ban đầu, chỉ có hai chu kỳ trong một năm, nhưng gần đây, chỉ tiêu thường là 2,5- 3,0
Gần đây, sản xuất nông nghiệp từ 2ha diện ích ao nuôi trong một chu kỳ sẽ thu hoạch được 45 -55 tấn hay 90 đến 110 tấn một năm. Trong chu kỳ hiện tại, nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm giảm ngày nuôi với việc cho ăn thâm canh và phát triển biofloc có kiểm soát, Việc này đã có hiệu quả, tôm phát triển nhanh hơn và ngày nuôi giảm xuống còn chỉ trên 80, so với 100 ngày điển hình trong chăn nuôi nông trai (hình 1)
Hình 1: Tăng trưởng tôm
Lợi ích của Biofloc
Hoạt động từ năm 2007 như một hệ thống thâm canh bình thường với L. vannamei.Tất cả 12 ao được đưa vào hoạt động vào cuối năm 2008, khi nông trại tôm tại Indonesia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi virus mionecrosis. Nông trại tại Bali cũng bị tấn công bởi virus, nhưng việc quản lý để điều hành 80-90 ngày nuôi chỉ bằng cách chỉ sử dụng nước thay thế được xử lý
Vào thời điểm đó, các hệ thông biofloc đã được khai mở, nhưng hệ thống kiểm soát mật độ biofloc vẫn chưa đúng. Khối lượng biofloc lên đến 15 ml/L, và mức độ hòa tan oxy giảm xuống dưới 2,5ppm. Tuy nhiên, các công nghệ biofloc đã được nhận thức đầy đủ và đưa ra thực nghiệm vào đầu năm 2009. Các trang trại đã sản xuất 45-55 tấn / chu kỳ kể từ năm 2009 một cách ổn định và bền vững, và không bộc phát virus.
Ghi chú:
Điều khiển sản xuất cần thiết cho hệ thông biofloc góp phần cải thiện an toàn sinh học.
Trong chu kỳ này, ao B1, B2, B3, C1, C2 và C3 được kiểm soát cao với một giai đoạn nuôi ngắn.
Những ao an toàn sinh học sử dụng những lưới ngăn chim và hàng rào để ngăn chặn thành phần mang bệnh.
Lớp lót làm tăng an toàn sinh học và ổn định đê và kênh tiếp tế.
Tất cả lạch nước phải được phủ lưới để lọc các động vật giáp xác, ấu trùng có thể xâm nhập vào ao nuôi.