Phòng bệnh lở mồm long móng ở bò
Qua công tác giám sát dịch bệnh trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Bến Tre đã có một số trường hợp nghi lở mồm long móng trên heo xảy ra tại huyện Mỏ Cày Nam và được điều trị kịp thời nên bệnh đã khỏi và không lây lan. Tuy nhiên, trong thời gian tới do điều kiện vệ sinh chăn nuôi chưa đảm bảo, thời tiết thay đổi nhiều bất lợi, môi trường ô nhiễm trong khi đó miễn dịch quần thể đàn đối với bệnh lở mồm long móng chưa đạt yêu cầu do tỷ lệ tiêm phòng còn thấp, người chăn nuôi chưa chủ động trong tiêm phòng mà chủ yếu trông chờ vào chương trình tiêm phòng miễn phí của nhà nước. Vì vậy đánh giá nguy cơ phát sinh dịch vẫn còn đe dọa đàn gia súc của tỉnh. Để chủ động phòng chống bệnh lở mồm long móng, bảo vệ đàn gia súc, Chi cục Thú y hướng dẫn bà con chăn nuôi cách nhận biết và biện pháp phòng chống bệnh lở mông long móng ở gia súc như sau:
1. Căn bệnh
– Bệnh Lở mồm long móng gia súc là bệnh truyền nhiễm cấp tính lây lan nhanh, mạnh, gây ra bởi 7 týp vi rút: A, O, C, Asia1, SAT1, SAT2, SAT3với hơn 60 phân týp. Ở Việt Nam đã phát hiện bệnh gây ra bởi 3 type A, O và Asia1. Tại Bến Tre từ trước đến nay bệnh xảy ra do vi rút type O.
– Vi rút dễ bị tiêu diệt bới ánh nắng mặt trời, nhiệt độ cao trên 700C trong vài phút, các chất sát trùng thông thường hoặc các chất có độ axít, độ kiểm mạnh đều có thể diệt được vi rút.
– Theo Tổ chức Thú y thế giới (OIE), đây là bệnh dịch xếp đầu tiên ở bảng A (gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất cho chăn nuôi và hạn chế thương mại đối với động vật, sản phẩm động vật).
2. Loài động vật mắc bệnh
Vi rút chủ yếu gây bệnh cho động vật móng guốc chẵn như: trâu, bò, dê, cừu, heo, hươu, nai, …
3. Đường truyền lây bệnh
– Bệnh lây lan trực tiếp do động vật khỏe tiếp xúc trực tiếp với động vật mắc bệnh do nuôi nhốt chung;
– Bệnh lây lan gián tiếp do động vật khoẻ tiếp xúc với sản phẩm động vật, thức ăn, nước uống, chất thải, dụng cụ, phương tiện vận chuyển, quần áo, giày dép có mang mầm bệnh; bệnh lây lan qua đường hô hấp do vi rút phát tán trong không khí và được gió đưa xa tới 10 Km.
4. Triệu chứng
Thời kỳ ủ bệnh LMLM gia súc thường từ 2 -5 ngày (đối với trâu, bò) và 5- 7 ngày (đối với heo), nhiều nhất là 21 ngày.
Khi phát bệnh gia súc có triệu chứng lâm sàng: trong 2 – 3 ngày đầu gia súc sốt cao trên 40oC, mệt mỏi, lông dựng, mũi khô, da nóng; đứng lên, nằm xuống khó khăn, kém ăn; miệng chảy nhiều nước dãi có bọt; nổi mụn nước ở miệng, lợi, vành mũi, vành móng, kẽ móng chân, đầu vú. Khi mụn nước vỡ ra sẽ làm lở, loét ở mồm, móng chân; bệnh nặng có thể làm long móng, nhất là ở heo. Con vật đi lại khó khăn, thường đi khập khiễng, run rẩy.
Ngoài ra, đối với bò khi bị bệnh thường hay nâng chân lên rồi lại hạ chân xuống nhiều lần, ở heo thì thường hay ở tư thế ngồi hoặc quỳ hai đầu gối chân trước.
Sau phát bệnh từ 10 đến 15 ngày, con vật có thể khỏi về triệu chứng lâm sàng, nhưng mầm bệnh vẫn tồn tại trong con vật từ 3-4 tuần (đối với heo), 4 tháng (đối với dê), 9 tháng đối với cừu, 2-3 năm (đối với trâu, bò) và tiếp tục thải mầm bệnh ra môi trường làm phát sinh và lây lan dịch bệnh.
5. Phòng bệnh:
Thực hiện quy trình phòng bệnh tổng hợp, cụ thể như sau:
a) Về chuồng trại:
– Chuồng trại khô ráo, tránh nắng, tránh gió lùa, đảm bảo ấm về mùa lạnh và thoáng mát về mùa hè.
– Nền chuồng, tường chuồng phải phẳng để dễ quét dọn, cọ rửa, không đọng nước, trước cửa chuồng có hố sát trùng.
– Có khu vực riêng để nuôi nhốt cách ly động vật mới mua về trước khi nhập đàn hoặc cách ly con vật ốm để theo dõi, điều trị.
b) Về con giống:
Con giống đưa vào chăn nuôi phải khoẻ mạnh, có nguồn gốc rõ ràng, đã được tiêm phòng vắc xin LMLM; trước khi nhập đàn phải được nuôi cách ly 21 ngày
c) Về chăm sóc, nuôi dưỡng:
– Thức ăn, nước uống dùng trong chăn nuôi phải đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y. Cho vật nuôi ăn, uống đầy đủ, đúng khẩu phần đảm bảo chất lượng.
– Thường xuyên bổ sung vitamin, điện giải, men tiêu hoá để nâng cao sức đề kháng cho đàn vật nuôi.
d) Về vệ sinh, tiêu độc, khử trùng:
– Hàng ngày phải quét dọn chuồng nuôi và định kỳ tiêu độc khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi bằng vôi bột và các loại hoá chất sát trùng như Benkocid, Navetcid, Virkon,… Khi không có dịch thực hiện 1-2 lần/tuần, khi có dịch 2 lần/tuần.
– Sau mỗi đợt nuôi phải tiến hành tổng vệ sinh chuồng trại, rửa nền chuồng bằng nước sạch, để khô, sau đó phun thuốc sát trùng toàn bộ tường, trần, nền chuồng. Để trống chuồng ít nhất 2 tuần trước khi nhập nuôi lứa mới.
e) Tiêm phòng:
– Chỉ sử dụng vắc xin LMLM type O. Đối với gia súc lần đầu mới tiêm thì sau khi tiêm mũi 1 được 21 ngày phải tiêm nhắc lại mũi 2, sau đó cứ 6 tháng tiêm 1 lần. Riêng dê cừu chỉ tiêm 01 lần trong năm.
– Liều lượng: Trâu, bò, heo tiêm 2 ml/con; dê, cừu tiêm 1 ml/con.
– Lưu ý: Chỉ sử dụng vắc xin còn hạn sử dụng, không biến màu. Tiêm đúng liều lượng, đúng đối tượng, đúng đường tiêm và chỉ tiêm phòng vắc xin cho những gia súc khoẻ mạnh.
6. Chữa bệnh
– Người chăn nuôi phải thường xuyên theo dõi quan sát đàn vật nuôi, khi thấy gia súc có hiện tượng ốm, sốt, bỏ ăn, chảy nước dãi, què chân, có mụn nước ở vùng miệng, vành móng chân hoặc chết bất thường phải tiến hành cách ly ngay những con ốm ra khu vực riêng; Báo ngay cho thú y hoặc chính quyền địa phương để được hướng dẫn biện pháp xử lý thích hợp; Theo qui định đối với vùng lần đầu tiên phát hiện có dịch, diện dịch hẹp, số lượng gia súc mắc bệnh ít hoặc mắc bệnh do vi rút type mới gây ra, thì biện pháp hiệu quả nhất là tiêu huỷ toàn bộ gia súc nhiễm bệnh, để nhanh chóng dập tắt ổ dịch. Trường hợp khác có thể giữ lại để theo dõi điều trị.
– Khi gia súc bị nhiễm bệnh LMLM, nếu không được điều trị kịp thời, gia súc non thường bị chết ở tỷ lệ từ 20 – 50%, gia súc trưởng thành thường bị chết từ 2 – 5%, tỷ lệ mắc bệnh trong một đàn thường là 100%. Đến nay, bệnh lở mồm long móng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, biện pháp chủ yếu là nâng cao sức đề kháng tự nhiên cho con vật bằng cách tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng như: cho ăn thức ăn mềm dễ tiêu, bổ sung vitamin, điện giải, nền chuồng phải khô ráo, sạch sẽ. Xử lý các vết loét bằng cách bôi các loại thuốc sát trùng như xanh Mê-ty-len, cồn iod hoặc nước chanh, khế, tiêm kháng sinh để chống bội nhiễm;
Có thể áp dụng các cách chữa trị vết thương sau:
– Ở miệng: Dùng các chất sát trùng nhẹ, các loại quả chua như khế, chanh bóp mền, rưới nước (hoặc bơm xịt nước), chà đi, sát lại ở lưỡi, mặt trong má, hàm trên, lợi, bỏ bã vào miệng cho con vật nhai. Có thể dùng vải mỏng thấm nước nói trên xoa vào vùng vết thương 2 – 3 lần/ngày và xoa trong vòng 4 – 5 ngày. Hoặc dùng một trong các chất như: xanh Methylen 1%, thuốc tím 1%, phèn chua 3%, axit acetic 3% hoặc dùng thuốc mỡ Tetracilin, Penicilin bôi vào vết thương.
– Ở móng: Rửa sạch chân gia súc bằng nước muối, nước lá chát, hoặc thuốc tím, phèn chua, dấm ăn; sau đó bôi các chất sát trùng hút mủ lên vùng móng bị bệnh (bột xoan trộn với dầu lạc, diêm sinh). Để đề phòng ruồi nhặng đẻ trứng vào kẽ móng, có thể dùng Cresin pha loãng hoặc dùng thuốc lào đắp vào vết thương.
– Ở vú: Rửa mụn loét bằng nước muối ấm, dung dịch axit boric 2-3% sau đó bôi dầu cá, các thuốc sát trùng vào vết thương.
Cùng với việc điều trị bệnh, cần tiến hành chăm sóc, nuôi dưỡng tốt và tiêu độc khử trùng chuồng trại, môi trường xung quanh mỗi ngày 01 lần.
Bệnh LMLM gia súc do virut gây ra, hiện nay chưa có kháng sinh điều trị đặc hiệu. Vì vậy, tiêm phòng vắc xin LMLM và chăn nuôi an toàn sinh học là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất. Để bảo vệ đàn vật nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình đề nghị bà con chăn nuôi quan tâm áp dụng tốt các biện pháp đã nêu trên nhằm hạn chế thiệt hại do dịch bệnh gây ra