Một số biện pháp theo dõi sức khỏe thủy sản
Tuy nhiên, để đánh giá tình trạng sức khỏe động vật thủy sản kịp thời và đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp chúng ta phải dựa vào một tiêu chí sau đây:
Thủy sản nuôi có khoẻ mạnh thì khả năng chống chịu lại điều kiện khắc nghiệt của môi trường cao. Chính vì vậy chất lượng con giống phải đặt lên hàng đầu. Chẳng hạn chất lượng cá giống được người nuôi đánh giá dựa vào sức khoẻ cá sau khi luyện cá bằng cách cho cá sống trong môi trường nước có độ trong thấp (bằng cách sục bùn) hoặc nuôi lưu với mật độ cao. Đối với giống tôm biển, có thể đánh giá chất lượng giống bằng cách gây sốc Formol hay gây sốc bằng nước ngọt (trong 10-15 phút) nếu tôm giống khoẻ mạnh tỷ lệ tôm sống sẽ cao(trên 90%) và ngược lại.
Mỗi loài thủy sản nuôi đều có màu sắc đặc trưng khác nhau, trong quá trình nuôi nếu thấy màu sắc đặc trưng của chúng khác thường hoặc biến mất là các dấu hiệu cho thấy sức khỏe của thủy sản nuôi không bình thường, có thể do các tác nhân gây bệnh hoặc do một số yếu tố môi trường bất lợi đã ảnh hưởng đến thủy sản nuôi.
Một số biểu hiện thường gặp như: Khi cơ thể tôm sú chuyển sang màu xanh đen kèm theo hiện tượng còi cọc, chậm lớn thì chứng tỏ đàn tôm nuôi bị nhiễm virus MBV cao trong mô gan, tụy của tôm Hoặc khi cá nuôi trong ao gầy yếu, bơi lội chậm chạp. Da và mang bị viêm loét mang cá bị sưng và bị kênh; cá gầy yếu, màu sắc nhợt nhạt chứng tỏ cá bị bệnh sán lá đơn. Khi mang của các loài giáp xác nuôi như mang cua có những đốm đen, các tơ và áo mang chuyển màu đen một thời gian mang có mùi rất tanh, thối từng phần cho tới toàn bộ mang cua. Thân cua bị bệnh vỏ ngoài có các đốm đen, sau đó gây mù mắt, cua bỏ ăn, gầy yếu, hô hấp kém nằm im không hoạt động chứng tỏ cua bị bệnh đen mang.
Bên cạnh đó mỗi loài thủy sản nuôi ở mỗi giai đoạn phát triển chúng đều có các tập tính sống khác nhau nên người nuôi phải nắm được các tập tính này sẽ kiểm soát được sức khỏe động vật thủy sản nuôi trong suốt quá trình nuôi. Trong các ao nuôi cá, nếu thấy cá nổi đầu bơi lên tầng mặt, khi thấy bóng người mà chúng không lặn xuống đáy, chứng tỏ hàm lượng ôxy hòa tan trong nước thấp hoặc cá nuôi đã bị bệnh.
Hoặc trong nuôi tôm khi ở giai đoạn ấu trùng chúng có tập tính hướng quang nếu ấu trùng khỏe thì tính hướng quang mạnh và ngược lại, do vậy dựa vào tính hướng quang để đánh giá tình trạng sức khỏe của ấu trùng; Trong ao nuôi thương phẩm, nếu tôm bơi thành từng đàn chạy lòng vòng quanh bờ ao mà không xuống đáy để bắt mồi mặc dù ruột không có thức ăn, điều đó chứng tỏ tôm nuôi đã có dấu hiệu bệnh lý hay do nền đáy ao nuôi bị ô nhiễm, hàm lượng ôxy thấp, khí độc cao….
Sức khoẻ của động vật thủy sản cũng có thể kiểm tra qua những biểu hiện bất thường về hình dạng và sự không đầy đủ của các bộ phận cơ thể. Đối với giáp xác nuôi thường có những biểu hiện như: vỏ bị mềm, bị mòn cụt các phần phụ như chân, râu… Đối với cá bị thường bị mòn cụt hay xơ các vây, dị hình cột sống gây ưỡn lưng, cong thân, mắt cá bị lồi, bụng cá phình to hay tóp lại…
Để đánh giá sức khỏe của thủy sản nuôi còn thông qua lượng thức ăn được sử dụng hàng ngày, thời gian sử dụng hết khẩu phần thức ăn và lượng thức ăn sau bữa ăn. Hầu hết sức khỏe của động vật thủy sản xảy ra bất thường đều thể hiện bằng biểu hiện kém ăn hoặc bỏ ăn.
Tuy nhiên, đối với tôm nuôi khi tôm bỏ ăn bơi lòng vòng quanh bờ ao là do đáy ao ô nhiễm hoặc thiếu oxy…, khi tôm ăn nhiều đột ngột thì đây là lại dấu hiệu cho thấy tôm đã bị nhiễm bệnh (bệnh đốm trắng, đầu vàng, …). Đối với cá nuôi, nếu lượng thức ăn sử dụng đột ngột giảm thì đó lại là dấu hiệu của bệnh lý hay điều kiện môi trường không đảm bảo. Chính vì vậy trong quá trình nuôi người nuôi phải luôn luôn kiểm tra lượng thức ăn sử dụng trong một ngày để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Tags: theo doi suc khoe thuy san, nuoi thuy san, nuoi ca