Liên tiếp những vụ lúa sản xuất gần đây đã bùng phát dịch rầy nâu trầm trọng ở các tỉnh ĐBSCL, và một số tỉnh khác trong nước gây nên sự thiệt hại về kinh tế rất lớn và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều nông dân. Theo báo cáo của cá Chi cục BVTV các tỉnh phí Nam đến đầu tháng 3, tổng diện tích lúa Đông Xuân nhiễm rầy nâu khoảng hơn 180 ngàn ha. Mật độ rầy từ 1000 – 2000 con.m2.
Rầy nâu lan truyền như bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chỉ đạo bà con nông dân nên bỏ hóa ruộng khoảng 3 tuần lễ rồi bắt tay vào làm vụ Hè thu sớm. Bộ NN & PTNT cũng có chỉ đạo tương tự nhằm mục đích cắt nguồn lan truyền của rầy nâu và khuyến khích bà con nông dân gieo sạ vụ lúa Hè thu tới tập trung và đúng thời vụ. Sau thời gian này, nếu vẫn trồng lúa vụ tiếp theo bà con nên có biện pháp đề phòng dịch rầy nâu qua việc chọn giống lúa, kiểu canh tác và thời vụ thích hợp. Tuy nhiên cách tốt nhất vẫn là luân canh với một cây màu khác như bắp lai, các cây họ đậu, đặc biệt là đậu nành rất thích hợp trong vụ Xuân hè và Hè thu sớm ở ĐBSCL. Việc luân canh này có những lợi ích thiết thực như sau:
1. Cắt đứt nguồn lây lan của dịch rầy nâu
Liên tiếp những vụ lúa sản xuất gần đây đã bùng phát dịch rầy nâu trầm trọng ở các tỉnh ĐBSCL, và một số tỉnh khác trong nước gây nên sự thiệt hại về kinh tế rất lớn và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều nông dân. Theo báo cáo của cá Chi cục BVTV các tỉnh phí Nam đến đầu tháng 3, tổng diện tích lúa Đông Xuân nhiễm rầy nâu khoảng hơn 180 ngàn ha. Mật độ rầy từ 1000 – 2000 con.m2. Cá biệt có nơi mật độ kinh khủng từ 6000 – 10000 con/m2. Các tỉnh bị nhiễm nặng gồm có Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Long An, Cần Thơ…
Từ cuối tháng 2 đấn những ngày đầu tháng 3 này, số lượng rầy nâu trưởng thành bay vào đèn chiếu sang ở hộ gia đình, đường phố làm cho sự đi lại khó khăn, thậm chí nhiều nhà, quán sá, khu giải trí…đóng cửa sớm khi vừa tối vì mật độ rầy quá cao làm ô nhiễm môi trường. Như vậy, chắc chắn vụ Xuân Hè và Hè Thu sắp đến rầy nâu vẫn còn tiếp tục bùng phát và lây lan mạnh hơn do thế hệ rầy này gây ra. Do đó việc trồng cây màu khác lúa là rất thiết thực và có hiệu quả.
2. Gia tăng năng suất cây lúa và cải tạo đất
Nhiều nghiên cứu công bố cho thấy rằng năng suất lúa nhận được thấp nhất trong lô trồng độc canh lúa. Năng suất lúa cao nhất trong các lô luân canh Lúa-Đậu nành Ngoài ra việc luân canh này còn giúp cải tạo được lý tính và hóa tính của đất do chuyển từ chế độ đất ngập nước lien tục sang chế độ cây trồng cạn. Việc này giúp cho cả hai loại cây trồng lúa và cây trồng cạn trong việc sinh trưởng và phát triển. Đồng thời cây họ đậu còn giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất do sự cố định đạm của nhiều vi khuẩn nốt sần từ bộ rễ của cây đậu nành.
3. Giảm sự cạnh tranh của cỏ dai cho cả cây lúa và cây trồng cạn
Điều này rất dẽ hiểu vì các loại cỏ thường phát triển trong một môi trường nhất định. Nhiều loài cỏ thủy sinh gây hại lúa sẽ bị tiêu diệt hoặc giảm lượng lây lan đáng kể cho vụ sau nếu chuyển sang chế độ luân canh cây trồng cạn. Đồng thời cây trồng cạn trồng trong điều kiện luân canh lúa sẽ ít bị cỏ cạnh tranh hơn so với trồng độc canh nhiều vụ.
4. Cải tạo các đặc tính sinh hóa của đất trong hệ thống luân canh
Tính chất xốp của đất càng gia tăng sau 3 năm luân canh cây trồng cạn với lúa so với 1 – 2 năm. Vật chất hữu cơ trong đất giảm dần dần với sự khoáng hóa dễ dàng vật chất hữu cơ trong điều kiện đất cạn-lúa nước. Hàm lượng phosphate (lân) dễ hấp thu giảm từ từ trong điều kiện canh tác lúa liên tiếp, nhưng lại gia tăng trong điều kiện luân canh cây trồng cạn. Lân được phóng thích trong điều kiện thiếu không khí và cố định trong điều kiện kỵ khí. Sự gia tăng chất lân trong đất trồng đậu nành kết quả từ việc cố định lân do điều kiện thiếu không khí.
Nhiều nghiên cứu cho rằng chất lân dễ tiêu giảm trong điều kiện đất cạn do bởi sự cố định sắt (Fe) và nhôm (Al). Không có sự thay đổi về chất canxi (Ca 2+) trong đất độc canh lúa, nhưng hàm lượng gia tăng sau khi luân canh cây trồng cạn. Trong khi đó, luân canh đậu nành gia tăng canxi trong hệ thống trồng đậu 2 vụ và luân canh với lúa. Đối với Kali trao đổi (K+), giảm một ít trong đất độc canh lúa, nhưng gia tăng trong đất luân canh với cây trồng cạn.
Từ các kết quả nghiên cứu đó, các Nhà khoa học đi đến kết luận rằng có sự khác nhau lớn trong điều kiện đồng ruộng giữa cây trồng cạn với lúa, chủ yếu do các điều kiện hảo khí và yếm khí và tưới tiêu nước bề mặt và mao dẫn của nước ngầm. Vì vậy, nhằm ổn định về năng suất và môi trường đất, việc luân canh lúa-cây trồng cạn hàng năm đã được khuyến cáo nên áp dụng.
Như vậy, luân canh cây trồng cạn, đặc biệt đậu nành với lúa là một kiểu canh tác quan trọng trong hệ thống nông nghiệp bền vững, do hiệu quả của chúng đối với độ phì nhiêu của đất và những lợi ích khác bao gồm giảm sự canh tranh của cỏ dại và gia tăng năng suất lúa vụ sau.
Ở ĐBSCL sau vụ lúa Đông xuân, có thể áp dụng luân canh đậu nành liền sau đó (vụ Xuân hè hay vụ Hè thu sớm). Trồng đậu nành có thể áp dụng kiểu làm đất tổi thiểu hay không làm đất như thọc lỗ bỏ hạt, sau đó dung rơm phủ hạt. Đối với đậu nành còn áp dụng sạ lan trong gốc rạ sau đó bơm nước ngập vài giờ rối tháo cạn cho hạt nẩy mầm và chống xì phèn. Cũng có thể dung máy sạ hàng thường dung để sạ lúa sau khi điều chỉnh lỗ bằng băng cao su bịt kín hàng không dùng dến để đảm bảo mật độ hàng từ 35 – 40 cm cây từ 10 – 15 cm, mỗi lỗ gieo từ 2 -3 hạt.