Loài tôm này sống trong tự nhiên thường ẩn mình trong cát, hiện đã được chuyển nuôi thành công trong điều kiện nước ngọt, sản lượng tôm nuôi trong đầm, ao có thể đạt tới trên 150 kg/mẫu (1mẫu TQ = 666m2), nếu trong đầm, ao có bùn thì sản lượng tôm thu được còn cao hơn, đạt 770 kg/mẫu. Nó được gọi là loài tôm biển có thể nuôi trong môi trường nước ngọt.
1. Xây ao
Khi tiến hành xây dựng ao nuôi phải xem xét nguồn nước cung cấp có đầy đủ không, chất lượng nước phải tốt, không có rác thải và tạp chất, chất đáy tốt, chất đất rắn chắc, khi cần thiết có thể tiến hành cấp thoát nước dễ dàng. Diện tích ao nuôi khoảng 5 – 10 mẫu, thông thường không vượt quá 20 mẫu, mức nước sâu trên 1m, tốt nhất là 1,5 – 1,8m, ao có hình chữ nhật hoặc hình tròn, kè ao phải làm chắc chắn tránh bị sụt vỡ, độ cao chênh lệch giữa cống bơm nước và cống tiêu nước ở đáy ao phải lớn hơn 20 cm, công việc bơm nước và thoát nước phải được thực hiện riêng rẽ, tốt nhất là có hồ nước dự trữ.
2. Công tác chuẩn bị trước khi thả giống
2.1 Làm sạch ao nuôi : Ðối với ao mới xây, trước hết nên bơm nước vào ao để ngâm ao 2 – 3 lần, sau đó tiến hành tiêu độc; đối với ao đã sử dụng lâu hoặc nguyên là ao cá cải tạo thành ao nuôi tôm thì phải phơi nắng ao nuôi, làm sạch bùn đất và cỏ dại, sau đó mới tiến hành tiêu độc. Cụ thể cách làm như sau : Từ 15 – 20 ngày trước khi thả giống, bơm 20 – 30 cm nước, hai ngày sau rút hết nước trong ao, dùng 100 – 150 kg vôi sống/mẫu, nếu ao có tính axit mạnh thì làm nhiều lần, sau đó bơm nước vào để ngâm ao 2 – 3 ngày, sau khi xả sạch nước lại bơm vào ao 20 – 30 cm nước, dùng 10 – 15 kg bã chè/mẫu rải đều xuống ao. Khi việc tiêu độc được hoàn tất thì bơm nước vào ao.
2.2 Nuôi sinh vật làm thức ăn cho tôm : Sau khi đã làm sạch ao nuôi, dùng lưới dày 60 mắt chặn miệng cống, bơm 50 – 60cm nước vào ao, tiếp đó bón phân để cải tạo chất nước. Tỉ lệ phân đạm – phân lân là 2 – 3 : 1, ngoài ra mỗi mẫu cần cung cấp thêm 1,5 – 2 kg nước tiểu, hai ngày sau tiến hành quan sát nồng độ phân trong nước, xem xét tình hình thời tiết, từ đó quyết định xem có thể tiến hành tiếp đợt hai chưa, sau 7 – 10 ngày, độ trong của nước phải là 25 – 30 cm, sắc nước phải có màu nâu hoặc màu xanh, lúc này trong ao nuôi đã hình thành hệ sinh vật làm thức ăn cho tôm rất phong phú, đây chính là thời điểm có thể thả giống xuống ao.
2.3 Xử lý độ mặn của nước : Ðối với ao nuôi thuần nước ngọt, trước khi thả giống 1 – 2 ngày nên dùng muối để điều chỉnh độ mặn của nước. Mỗi mẫu thả 100 – 150 kg muối, khiến độ mặn của nước trong ao đạt 300 ppm trở lên, như vậy sẽ làm tăng tỉ lệ sống của tôm nuôi.
3. Chọn giống và nuôi dưỡng
3.1Chọn giống :
Khi tiến hành chọn giống phải kiên quyết đưa chất lượng lên vị trí hàng đầu, tôm giống có chất lượng tốt sẽ thể hiện ở : chiều dài thân trên 0,8 cm, bơi lội linh hoạt, biểu hiện bên ngoài sạch sẽ, không bị thương, các đốt bụng hình chữ nhật, mình tôm nở, chắc, tôm giống to đều, không có tật, khả năng bơi ngược dòng nước tốt.
3.2 Ngọt hoá tôm giống
Do tôm chân trắng Nam Mỹ là loài tôm trứng nở trong nước biển có tỉ trọng là 1,018 – 1,022, nên nếu như trực tiếp đưa tôm giống vào ao nước ngọt để nuôi sẽ không thu được kết quả mong muốn. Trước tiên phải tiến hành xử lý ngọt hoá tôm giống. Muốn vậy phải tiến hành từng bước một, không thể vội vàng, nếu không việc ngọt hoá tôm giống sẽ bị thất bại. Trong quá trình ngọt hoá, mỗi ngày chỉ giảm tỉ trọng 3 – 4 đơn vị (tức là giảm từ 1,018 xuống 1,014 – 1,010 – 1,006 – 1,003 – 1,001) cho tới khi độ mặn trong ao chỉ còn 2 – 3 thì có thể chuyển sang nuôi nước ngọt. Quá trình ngọt hoá tốt nhất nên tiến hành ở đầm ươm giống.
3.3 Thả giống
Kiểm tra nước 2 – 3 ngày trước khi thả giống, chọn một số tôm giống đã được ngọt hoá cho vào túi lưới 40 mắt thả túi xuống ao và quan sát, sau 2 ngày nếu như tỉ lệ sống cao hơn 90% thì môi trường nước đó được coi là thích hợp, nếu tỉ lệ chết cao thì ngừng việc thả giống, xác minh nguyên nhân, chỉ khi đã điều chỉnh lại chất nước cho tốt mới tiến hành thả giống. Nên chọn thả giống vào sáng hoặc chập tối một ngày trời quan đãng, không mưa, tuyệt đối tránh thả giống vào buổi trưa khi ánh nắng mặt trời đang chiếu gắt hoặc hôm thời tiết có mưa.
3.4 Lượng tôm giống cần thả
Mật độ tôm giống thả dựa trên cách thức nuôi và điều kiện nuôi. Tại các ao nuôi chất lượng cao có thiết bị sục khí và điều kiện nuôi tốt, lượng giống nên thả là 20.000 – 30.000 con, tại các ao nuôi chất lượng thấp hơn thả 15.000 con, ao chất lượng thấp chỉ nên thả 10.000 con.
4. Công tác quản lý nuôi trồng
Công tác quản lý quyết định việc nuôi tôm có thành công hay không. Quản lý tốt, tỉ lệ thành công cao, quản lý không tốt sẽ tạo nên những tổn thất không đáng có, thậm chí việc nuôi tôm bị thất bại. Vì thế, việc quản lý một cách khoa học được coi là điểm mấu chốt. Quản lý nuôi trồng bao gồm quản lý chất nước, quản lý thức ăn và phòng trừ bệnh hại
4.1 Quản lý chất nước
Chất nước của ao nuôi tôm là một trong các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản lượng tôm nuôi, là môi trường sống của tôm trong suốt quá trình nuôi dưỡng, và là chìa khoá của sự thành công. Sự thay đổi môi trường nước có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng bình thường ở tôm, nếu tôm sống trong một môi trường nước không tốt, sẽ kém ăn, phát triển chậm, thậm chí chất nước không tốt còn tạo điều kiện cho các vi khuẩn gây bệnh sinh sôi, dẫn tới tôm bị bệnh, gây nên thất bại cho nghề nuôi. Vì vậy, trong quá trình nuôi, duy trì các chỉ tiêu về chất nước thật ổn định. Các chỉ tiêu về chất nước gồm có : Ðộ pH từ 7,8 – 8,6; sắc nước nâu, hoặc có màu lá cọ hoặc màu xanh lá cây; độ trong của nước từ 30 – 40 cm; lượng ôxy hoà tan trong nước là 4 mg/L. Thời kỳ đầu nên bơm thêm nước, thời kỳ giữa và cuối quan sát tình hình chất nước để quyết định việc thay nước, mục đích là duy trì chất nước luôn tốt.
4.2 Quản lý thức ăn
Thường thì 15 ngày đầu sau khi thả giống, người ta không cho tôm ăn, sau 15 ngày mới bắt đầu cho tôm ăn thức ăn tổng hợp, mỗi tuần cho ăn thêm 1- 2 lần thức ăn tươi sống để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng. Thời kỳ đầu mỗi ngày cho ăn 2 lần, thời kỳ giữa và cuối mỗi ngày cho tôm ăn 3 – 4 lần, lượng thức ăn hằng ngày dựa vào công thức tính rất đơn giản : Thức ăn/con/ngày bằng 5% khối lượng hiện thời của tôm, ngoài ra có thể căn cứ vào khả năng tiêu thụ thức ăn của tôm để quyết định số lượng. nếu nhiệt độ của nước trong ao cao, tôm thường ăn nhiều, ta có thể tăng lượng thức ăn, ngược lại nếu nhiệt độ xuống thấp thì cho tôm ăn ít hơn, khi nhiệt độ của nước thấp dưới 15oC, tạm ngừng việc cho ăn.
4.3 Phòng trừ bệnh hại
Phòng trừ bệnh tôm nên tuân theo nguyên tắc Phòng hơn chữa bệnh , trong suốt quá trình nuôi nên định kỳ tiến hành tiêu độc cho nước, thông thường 1 tháng sau khi thả giống bắt đầu tiến hành tiêu độc, sau đó cứ nửa tháng lại tiến hành một lần, thuốc tiêu độc gồm có bột Phiêu Bạch (bột tẩy trắng), vôi sống quan sát tình trạng chất nước để quyết định loại thuốc cần dùng. Trong quá trình nuôi, khoảng nửa tháng hoặc một tháng rắc bã chè xuống ao một lần tốt cho sự sinh trưởng của tôm.
4.4 Quản lý hằng ngày
Hàng ngày vào 2 buổi sáng, tối, kiểm tra quanh ao một lần, phát hiện những bất thường về thiết kế, quan sát sự thay đổi về môi trường sống của tôm, đặc biệt là mầu sắc nước, tình hình hoạt động của tôm, từ đó kịp thời đưa ra biện pháp xử lý.
4.5 Thu hoạch
Thời gian để tôm chân trắng Nam Mỹ đạt tới kích cỡ thương phẩm là 70 ngày, lúc này có thể thu hoạch và đưa tôm ra thị trường tiêu thụ ăn
Tags: nuoi tom the chan trang, cach nuoi tom the, tom the chan trang, ao nuoi tom, xu ly ao, tom giong