Kỹ thuật nuôi nghêu – Phần 2
3. Thức ăn và phương pháp bắt mồi
Cũng như các loài động vật thân mềm hai vỏ khác, ngao là loài ăn lọc, chúng bắt mồi theo hình thức thụ động.
Khi triều dâng ngao thò vòi lên cát để lọc mồi ăn, chọn các mảnh vụn hữu cơ, vi sinh vật, các loài thực vật phù du có kích cỡ thích hợp là được.
4. Sinh trưởng
Tốc độ tăng trưởng của ngao phụ thuộc vào vùng phân bố nhiều hay ít thức ăn.
Ngao phân bố ở các vùng cửa sông nơi phong phú về thành phần thực vật phù du và các mảnh bùn bã hữu cơ, ngao lớn nhanh.
Ngao sống vùng triều thấp lớn nhanh hơn vùng triều cao.
Ngao dầu 1 tuổi có khối lượng khoảng 5-7g, 2 tuổi có khối lượng 12g.
Thời gian lớn nhanh của ngao thường từ tháng 4 dến tháng 9 khi điều kiện nhiệt độ thích hợp.
Hai năm đầu ngao lớn nhanh sau đó chậm dần, ngao dầu có những cá thể có kích thước lớn đạt: 13cm chiều dài vỏ, 11cm chiều cao vỏ và 5,8cm chiều rộng vỏ.
5. Đặc điểm sinh sản
Ngao đẻ trứng phóng tinh.
Trong mùa sinh sản ngao đực thường phóng tinh trước, tinh dịch theo ống xi phông thoát ra ngoài, tan vào trong nước và con cái lập tức phóng trứng theo.
Quá trình này xảy ra gần như đồng loạt và môi trường nước nhanh chóng bị vẫn đục bởi lượng lớn tinh dịch của con đực. Quá trình sinh sản diễn ra trong thời gian từ 30 phút đến 1 giờ.
Trong điều kiện môi trường bình thường nhiệt độ nước 26-28oC, độ mặn nước biển 20-25‰; pH: 7,8-8; O2 hòa tan 6mg/L, trứng sẽ được thụ tinh ngay sau khi được phóng vào môi trường nước. Nhân tế bào trứng tan biến, khoảng 20 phút sau cực diệp thứ nhất, thứ hai xuất hiện sau đó trứng bắt dầu bước sang giai đoạn phân cắt 2 tế bào, 4, 6 tế bào.
Ấu trùng đỉnh vỏ lồi xuất hiện sau 24 giờ từ khi trứng được thụ tinh, trải qua quá trình biến thái hình thành ấu trùng xuất hiện chân bò chuẩn bị giai đoạn sống đáy sau 10-12 ngày.