Sản xuất giống nghêu Bến Tre – Phần 2
* Yếu tố môi trường trong các bể ương ấu trùng
Nhiệt độ nước 26,5 – 30 C.
Độ mặn 18 – 22 phần nghìn; pH 8–8,5; DO 6 – 8mg/l; N2–N= 0,2 – 0,25mg/l.
Trong các yếu tố môi trường trên, nhiệt độ là yếu tố khó khống chế trong suốt thời kỳ ương nuôi ấu trùng và yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình SX giống.
Trong toàn bộ quá trình ương nuôi nghêu thì tỷ lệ sống từ giai đoạn thụ tinh đến giai đoạn sống đáy rất thấp, dao động từ 8 – 25%.
Đây là giai đoạn quyết định đến sự thành công hay thất bại cho quá trình SX giống nhân tạo nghêu.
Chế độ thay nước trong ương nuôi sẽ góp phần nâng cao hay giảm thấp tỷ lệ sống của nghêu trong toàn bộ quá trình SX giống.
Do đó cần thay nước 60 – 70%/ngày ở giai đoạn ấu trùng và sau đó có thể giảm 30 – 50% ở giai đoạn giống lớn sau 2 tháng.
Lưu ý: Nghêu Bến Tre có thể sinh sản và ương nuôi trong điều kiện nhân tạo.
Nghêu thành thục có thể kích thích sinh sản bằng dung dịch NH4OH, kết hợp với sốc nhiệt…
Kết quả kích thích sinh sản số lượng con cái thành thục tham gia sinh sản đạt từ 20 – 40%.
Số lượng trứng thu được mỗi con cái trong một lần đẻ dao động từ 1,7 – 8,025 triệu/1 cá thể cái, bình quân 5,08 triệu trứng/1 cá thể cái, với trọng lượng con cái từ 18 – 49g.
Sức sinh sản hiệu quả ước tính từ ấu trùng chữ D mạnh khỏe đưa vào ương nuôi dao động từ 70,16 – 74,39% đối với sinh sản tự nhiên và dao động trong giới hạn từ 41,9 – 50,7% đối với kích thích bằng hóa chất.
Trong vòng đời, ấu trùng nghêu trải qua giai đoạn phù du từ 9–11 ngày, sau đó mới chuyển sang giai đoạn sống đáy với tỷ lệ sống giai đoạn này rất thấp dao động từ 12 – 32%.
Giống nhỏ 35 ngày tuổi có kích thước 1,165mm và giống 100 ngày tuổi có kích thước khoảng 4mm.