|
Tôm thẻ chân trắng bị nhiễm Microsporidian (Thelohania). |
Vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei
Nó được phát hiện trong tôm chậm phát triển nhưng không có thống kê liên quan tới sự chậm tăng trưởng tại thời điểm đó. EHP ảnh hưởng trong giới hạn gan mật của tôm (HP) và có hình thái giống như một vi bào tử chưa được đặt tên là microporidian, điều này được báo cáo trước đó trong gan mật của giống P. japonicas từ Úc vào năm 2001. Đồng thời, một vài nghiên cứu cho rằng EHP không phải là tác nhân gây bệnh kỳ lạ mà là một bệnh địa phương tại Úc. Sau đó, xét thấy rằng EHP cũng có thể lây nhiễm lên loài tôm sú chân trắng P. vannamei nhập khẩu để canh tác tại Châu Á và nó có thể được truyền trực tiếp từ tôm này sang tôm khác bằng đường miệng (Tangprasittipap et al. 2013. BMC Vet Res. 9:139). Điều này khác với những loài vi bảo từ phổ biến nhất được báo cáo trước đó từ tôm bông, khi đó sự truyền nhiễm đòi hỏi một cá thể trung gian là cá, cho phép phá vỡ đường truyền bằng cách loại trừ các loài cá khỏi các hệ thống sản xuất.
Tại sao EHP lại quan trọng?
Mặc dù EHP không gây tử vong, thông tin từ người nuôi tôm cho thấy rằng nó có liên quan đến sự chậm phát triển nghiêm trọng trên tôm sú chân trắng P.vannamei. Vì thế, chúng tôi đã bắt đầu cánh báo đến các nông dân Châu Á và trại điều hành tôm giống sau năm 2009 để theo dõi tôm sú chân trắng giống P. vannamei và tôm sú giống P. monodon về EHP ở tôm bố mẹ và tôm giống (PL). Tuy nhiên, lời cảnh báo không được chú ý vì sự tập trung cao độ vào hội chứng tử vong sớm (EMS) hay bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND). Chúng tôi lo sợ rằng sự thiếu quan tâm đến EHP sẽ dẫn đến việc nó sẽ dần phát triển trong hệ thống sản xuất và sự lây lan sẽ được che đây bởi EMS/AHPND vì nó giết tôm trước khi những tác động tiêu cực của EMS tác động lên sự phát triển một cách rõ ràng. Chúng tôi lo ngại rằng giải pháp của EMS/ AHPND có thể dẫn đến thành công trong việc phát tán những vấn đề của sự chậm phát triển. Thật vậy, điều này có vẻ như đã xảy ra trong năm vừa rồi. Hiện tại chúng tôi đã có được thông tin cho thấy dịch EHP đang lan ra rộng rãi tại Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. Gần đây thôi, chúng tôi cũng nhận được một số mẫu dương tính PCR cho EHP từ tôm chậm phát triển tại Ấn Độ. Vì thế, EHP là vấn đề cấp thiết cần phải kiểm soát.
Làm thế nào để kiểm soát sự lây lan quốc tế của EHP
Một phương pháp phát hiện PCR lồng vào nhau và một phương pháp LAMP có sẵn để kiểm tra phân của tôm bố mẹ và để kiểm tra toàn bộ PL để phát hiện sự hiên diện của EHP (Tangprasittipap et al. 2013. BMC Vet Res. 9:139; Suebsing et al. 2013. J Appl Microbiol 114: 1254-1263). Các tác nhân gây bệnh cũng có thể được phát hiện bằng kính hiển vi ánh sáng, sử dụng phóng to 100 lần mẫu vật với phần mô HP nhuộm màu hay làm mờ HP, nhưng việc này dựa trên sự tìm thấy các bào tử đặc trưng đó là rất nhỏ (chiều dài nhỏ hơn 1 micro) và thỉnh thoảng chỉ sản sinh ra một lượng nhỏ, thậm chí một số mẫu bị nhiễm nặng nề. Vì thế, các phương pháp PCR được ưa dùng hơn.
Chúng tôi cũng có những dữ liệu cho thấy rằng phần lớn kho SPF tôm sú chân trắng P. Vannamei được nhập khẩu từ Thái Lan đều âm tính với EHP nhưng chúng vẫn thường bị nhiễm tại các trại giống và các cơ sở nuôi trồng vì sự nghèo nàn trong an toàn sinh học. Một lỗi nghiêm trọng trong an toàn sinh học là sự lây lan do việc dùng những động vật sống (như giun tơ, trai v..v..) từ nguồn địa phương hay mang vào để cho tôm bố mẹ ăn, bất chấp cảnh báo của chúng tôi trong việc chống lại những việc này. Chúng tôi đã có dữ liệu vững chắc rằng một số loài giun tơ sống từ địa phương và các nguồn nhập khẩu từ Châu Á có thể dương tính trong kết quả kiểm tra PCR và cả vi khuẩn AHPND và EHP. Tuy nhiên, cũng có một số khả năng một vài kiện hàng nhập khẩu tôm sú chân tráng P.vannamei dán mác SPF cũng có thể dương tính với EHP, vì nó không nằm trong danh sách OIE được sử dụng bởi nhiều nhà cung cấp SPR hay cơ quan kiểm dịch chịu trách nhiệm trong việc xác nhận tình trạng SPF. Vấn đề này có thể được chỉnh lý lại bằng cách thêm EHP vào danh sách SPF cho cả nhà cung cấp và cơ quan kiểm dịch. Phân của tôm bố mẹ có thể được kiểm tra sự tồn tại của EHP bởi PCR lồng.
Phương pháp tốt nhất dành cho các cơ sở nuôi trồng và trại giống để tránh EHP là không bao giờ sử dụng động vật sống (như giun tơ sống, nghêu, sò, v..v..) làm thức ăn cho tôm bố mẹ. Nếu bỏ qua lời khuyên này, tối thiểu nhất thì những thức ăn nên được đông lạnh trước khi được dùng vì nó ít nhất sẽ giết hết vi khuẩn AHPND và EHP. Tốt hơn hết nên được thanh trùng (đun ở nhiệt độ 70 độ C trong vòng 10 phút) vì nó cũng có thể giết phần lớn virus cho tôm (khi mà việc đông lạnh không làm được). Một lựa chọn khác được sử dụng là chiếu tia gamma cho thức ăn đông lạnh.
Làm cách nào kiểm soát EHP trong trại sản xuất giống?
EHP và vi khuẩn AHPND đều được tìm thấy trên tôm bố mẹ từ Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan. Cả hai đều được báo cáo lại từ các mẫu giun nhiều sơ sống được dùng để làm thức ăn cho tôm bố mẹ. EHP có thể được nghi ngờ đã ảnh hưởng nếu những ấu trùng từ trại giống phát triển chậm hơn so với dự đoán.
Vì thế, vấn đề đầu tiên để đảm bảo là các cơ sở nuôi trồng và cơ sở vật chất của trại giống phải SẠCH! Để đạt được mục tiêu này, tất cả tôm phải được mang ra khỏi trại giống và trại được làm sạch sau đó bằng dung dịch sodium hydroxide 2.5% (25 g NaOH / 1 lít nước ngọt) với những giải pháp còn lại và rửa sạch sau 3 giờ tiếp xúc. Quá trình điều trị này bao gồm tất cả các thiết bị, bộ lọc, bể chứa và đường ống. Sau khi rửa, để loại bỏ NaOH, trại giống nên được sấy khô trong vòng 7 ngày. Sau đó phải được rửa sạch với dung dịch Chlorine 200 ppm.
Vấn đề tiếp theo là ở tôm bố mẹ. Như đã được nêu ở trên, một số tôm bố mẹ của SPF đã cho kết quả dương tính với EHP nhưng không có vi khuẩn AHPND. Vì thế, SPF tôm bố mẹ cũng nên được yêu cầu kiểu tra EHP trong khi kiểm dịch và trước khi nhận vào một cơ sở nuôi trồng và trại giống. Công tác của chúng tôi tại Thái Lan tiết lộ rằng những ao nuôi trồng tôm bố mẹ có nguồn gốc nhập từ kho SPF ban đầu miễn kiểm tra EHP cho thấy mức độ khác cao về tỷ lệ nhiễm EHP. Như đã nêu phía trên, phân của tôm bố mẹ có thể được kiểm tra EHP bởi PCR lồng dùng việc chiết DNA từ phân như vật mẫu. Sự xác nhận sẽ được tiến hành trên mô HP sau khi tính hữu ích của tôm bố mẹ đã hết hạn.
Làm cách nào để kiểm soát EHP trên các ao nuôi tôm thương phẩm.
Đối với nông dân, có hai vấn đề chính cần phải đối mặt. Vấn đề thứ nhất là đảm bảo rằng các PL được dùng cho các ao trữ không bị nhiễm EHP. Điều này có thể làm được dễ dằng bằng việc kiểm tra PCR. Nếu DNA đã được chiết xuất từ PL để kiểm tra vi khuẩn AHPND bằng PCR, một phần của chiết xuất DNA tương tự có thể được dùng để kiểm tra EHP. Nông dân không nên sự dụng một loạt PL dương tính đối với một trong những tác nhân gây bệnh của ao nuôi.
Vấn đề thứ hai dành cho nông dân liên quan đến việc chuẩn bị ao thích hợp giữa các chu kỳ canh tác, đặc biệt khi ao canh tác trước đây đã từng bị nhiễm EHP. Các bào tử của EHP được bao bọc bởi một bức tường dày và không dễ để vô hiệu hóa. Thậm chí một nồng độ clo cao cũng không có hiệu quả. Thêm vào đó, môi trường tiềm năng của vật mang mầm bệnh hiện nay vẫn chưa rõ. Cả hai có thể tồn tại trong ao sau khi thu hoạch và điều quan trọng là cả hai cần được vô hiệu hóa trước khi chu kỳ canh tác tiếp theo.
|
Đáy ao nuôi cần được cày xới khoảng 10-12 cm, sau đó bón vôi CaO khắp đáy ao. |
Để khử trùng ao dưới đất khỏi bào tử EHP, nên áp dụng CaO (vôi sống, vôi cháy, vôi tôi hoặc vôi nóng) với liều lượng 6 tấn/ ha. Đáy ao nuôi cần được cày xới khoảng 10-12 cm, sau đó bón vôi CaO khắp đáy ao, rồi làm ẩm để kích hoạt vôi. Sau đó, ao nuôi cần được phơi khô khoảng một tuần trước khi lấy nước vào ao nuôi. Sau khi áp dụng CaO, độ pH của đất sẽ tăng lên 12 hoặc cao hơn sau vài ngày và sau đó giảm xuống mức độ bình thường khi nó hấp thụ carbon dioxide và trở thành CaCO3.
Cảnh báo đặc biệt cho Mexico
Có tin đồn rằng sự bùng phát của AHPND ở Mexico có nguồn gốc từ tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh từ tôm sú chân trắng P.vannamei nhập lậu vào Mexico từ Châu Á để sản xuất PL trữ trong ao nuôi. Nếu tin đồn này có thật thì sẽ đẩy tỉ lệ lan truyền của EHP ở Châu Á, hoàn toàn có thể tôm được nhập khẩu cũng sẽ bị nhiễm EHP. Vì vậy,các cơ quan kiểm dịch ở Mexico nên khẩn cấp kiểm tra việc lưu thông và tiến hành xét nghiệm mẫu DNA lưu trữ được dùng để theo dõi vi khuẩn AHPND bằng PCR, cũng để kiểm tra sự hiện diện của EHP tấn công DNA bằng PCR. Nếu họ có thể tìm thấy nó, nó sẽ hỗ trợ cho giả thuyết vi khuẩn AHPND được nhập từ Châu Á. Nó cũng có thể là biện pháp phòng ngừa kịp thời hoặc tiếp tục giám sát việc nhập khẩu, lưu trữ tôm sống để có thể ngăn chặn sự đưa vào những sản phẩm rủi ro và thiết lập một loài ký sinh trùng kỳ lạ đến Mexico và phần còn lại của Châu Mỹ.
Nguồn: enaca.org, 24/11/2014
– Kallaya Sritunyalucksana1,2,3, Piyachat Sanguanrut1, Paul Vinu Salachan1,5, Siripong Thitamadee1,2 and Timothy W. Flegel1,4
– Center of Excellence for Shrimp Molecular Biology and Biotechnology, Faculty of Science, Mahidol University, Rama VI Rd., Bangkok, 10400.
– Shrimp-virus interaction laboratory (ASVI), Thailand National Center for Genetic Engineering and Biotechnology (BIOTEC), Yothi office, Rama VI Rd. Bangkok, 10400, Thailand
– Thailand National Center for Genetic Engineering and Biotechnology (BIOTEC), National Science and Technology Development Agency (NSTDA), Thailand Science Park Pathumthani, 12120, Thailand
– Department of Biotechnology, Faculty of Science, Mahidol University, Rama VI Rd. Bangkok, 10400, Thailand.
– VIT University, Vellore, Tamil Nadu, 632014, India
Hình ảnh: aquatec.vn, intechopen.com
Biên dịch: VÂN ANH
Tags: microporidian, enterocytozoon hepatopenaei, EHP, AHPND