Khi tôm nuôi phát ra ánh sáng xanh
Để hạn chế thiệt hại cho người nuôi tôm, Trung tâm khuyến ngư Kiên Giang hướng dẫn như sau:
Triệu chứng bệnh phát sáng
Trong ao nuôi, tôm bị bệnh thường bơi lội không định hướng, một số con giạt vào bờ, ao nuôi có hiện tượng tôm chết ở đáy ao với số lượng cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ nhiễm. Tôm nhiễm bệnh có đặc điểm chung là vỏ và thân có màu bẩn, cơ có màu đục, gan teo, khả năng bắt mồi giảm, ruột rỗng, phản xạ chậm chạp. Hiện tượng phát sáng dễ nhận biết khi quan sát tôm trong bóng tối. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn, pH, sự tích tụ các chất hữu cơ ảnh hưởng đến sự lây lan và mức độ cảm nhiễm.
Vi khuẩn Vibrio harveyi gây bệnh phát sáng trên tôm sú thuộc nhóm gram âm (G-) sống dưới nước, phân chia tế bào rất nhanh ở độ mặn từ 0 đến 40‰ và phát triển mạnh khi nhiệt độ tăng cao. Vi khuẩn cũng phát triển mạnh trong môi trường nước có hàm lượng chất hữu cơ cao và hàm lượng oxy thấp. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể tôm, chúng gây viêm gan, ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa, làm tôm suy yếu và chết dần.
Phòng bệnh
Điều chỉnh độ mặn: vi khuẩn Vibrio harveyi phát triển mạnh ở môi trường có độ mặn 20 – 30‰, nếu giảm mặn còn 5 – 7‰ thì mật độ vi khuẩn Vibrio harveyi sẽ giảm rõ rệt.
Nhiệt độ nước: nhiệt độ nước tăng cao là điều kiện tốt cho vi khuẩn phát triển. Để hạn chế khả năng tăng nhiệt, cần duy trì mức nước trong ao nuôi đạt độ sâu 1,2 – 1,5 m, đồng thời để giữ độ trong ở mức 30 – 40 cm (nước có màu giống như mái nhà che nắng hạn chế được sự tăng nhiệt vào ban trưa).
Giảm lượng chất hữu cơ trong nước: phương pháp này dễ thực hiện và có hiệu quả cao. Các chất hữu cơ có trong môi trường nước là do xác các phiêu sinh thực vật chết lắng tụ, lượng thức ăn dư thừa, cộng với chất thải của tôm. Vì vậy trước mỗi vụ nuôi phải cải tạo ao thật kỹ, vét sạch bùn đáy, bón vôi, phơi ao, khoáng hóa nền đáy. Trong khi nuôi cần quản lý tốt lượng thức ăn hàng ngày, thường xuyên kiểm tra sàn ăn để đánh giá khả năng bắt mồi và kịp thời điều chỉnh thức ăn hợp lý, không để tảo tàn đồng loạt làm mất màu nước và tăng lượng chất hữu cơ. Phát triển nhóm tảo lục (chlorella) cũng có tác dụng khống chế sự phát triển của vi khuẩn, tạo ra oxy và hấp thụ CO2 qua quá trình quang hợp.
Sử dụng hóa chất diệt vi khuẩn (trước khi thả tôm):
Những hóa chất có thể sử dụng để diệt vi khuẩn hoặc làm giảm sức hoạt động của vi khuẩn phát sáng trong nước bao gồm: chlorin (30 g/m3), BKC (1 – 2 g/m3) và thuốc tím (4 – 5 g/m3). Tuy nhiên khi hóa chất hết tác dụng thì những ổ vi khuẩn phát sáng còn sót lại sẽ phát triển. Do đó phải duy trì thường xuyên việc dùng hóa chất mới có kết quả tốt.
Sử dụng kháng sinh: việc sử dụng kháng sinh trị bệnh phát sáng chỉ có kết quả khi nào ta kiểm tra phát hiện sớm tôm bị nhiễm bệnh và dùng thuốc kịp thời, đúng liều lượng. Khả năng đưa thuốc vào cơ thể tôm có thể thực hiện được vì ở giai đoạn này tôm còn ăn thức ăn. Các loại kháng sinh được sử dụng là:
+ Oxytetracylin + Bactrim (tỷ lệ 1:1) ở nồng độ 1 – 3 ppm (g/m3).
+ Erythromycin + Rifamycin (tỷ lệ 5:3), nồng độ 1 – 2 ppm (g/m3).
+ Erythromycin + Bactrim (tỷ lệ 1:1), nồng độ 1 – 3 ppm (g/m3).
Đối với ao nuôi tôm thịt, việc sử dụng kháng sinh trị bệnh phát sáng sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém do thuốc phải sử dụng cho cả ao và duy trì tới 5 – 7 ngày.
Để phòng trị bệnh phát sáng cho tôm nuôi cần thực hiện tốt mọi biện pháp, từ khâu chọn giống ban đầu, cải tạo ao loại bỏ hết các chất hữu cơ vào đầu vụ, thực hiện nuôi tôm trong độ mặn thấp cho đến việc giữ nước có màu xanh vỏ đậu, hạn chế khả năng tăng cao nhiệt độ, không cho ăn dư, tăng cường sức khỏe tôm nuôi bằng thức ăn giàu dinh dưỡng, bổ sung vitamin và khoáng chất.
Tags: nuoi tom hum, ky thuat nuoi tom hum, ki thuat nuoi tom hum, nuoi tom trong be, long nuoi tom, tom hum giong