Giảm chi phí hóa chất với hệ thống nuôi vèo trong ao
Nông dân cũng đã ghi nhận sự tăng vọt hiệu quả cho ăn và hiệu quả hơn rất nhiều trong việc theo dõi và kiểm tra phản ứng của cá đối với thức ăn kháng sinh.
Phương pháp sản xuất như hệ thống vèo trong ao (IPRS) và chia nhỏ ao nuôi đang là phương pháp dần thay thế cho ao nuôi cá da trơn truyền thống ở Đông Nam nước Mỹ. Hiện nay, khoảng 600 Ha ao thương phẩm đã được chia ở Mississippi, Arkansas và Alabama, khu vực vẫn đang tiếp tục tăng diện tích mỗi năm. Ngoài ra, số ít nông dân ở Alabama đã thực hiện thành công IPRS trên hoạt động nuôi cá tra thương mại của họ. Một lợi thế đáng kể ghi nhận của nông dân sử dụng các hệ thống này là giảm chi phí liên quan đến việc xử lý hóa học các bệnh, trong đó đáng chú ý là thấp hơn hơn so với mô hình ao đất truyền thống.
Các bệnh trong mô hình IPRS
Các Trung tâm nuôi cá ở Alabama Greensboro, Alabama, và Đại học Auburn đã theo dõi tỉ lệ bệnh trong IPRS từ năm 2008. Các bệnh thông thường nhất quan sát được bao gồm hoại tử đuôi và vây, nhiễm trùng huyết đường ruột của cá da trơn và các vấn đề do vi khuẩn Aeromoas hydrophila. Hiện tại cũng đã phát hiện được các bệnh do kí sinh trùng như Trichodina, Henneguya, Ich và một số loại khác.
Cá chết do dịch bệnh đã thay đổi trong phạm vi khác nhau, từ một vài đến hàng ngàn, tùy thuộc vào bệnh và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng. Một lợi thế mà IPRS vượt trội hơn ao nuôi cá da trơn truyền thống là chi phí rẻ hơn nhiều để điều trị bằng hóa chất.
Phòng chống, kiểm soát dịch bệnh
Khâu quản lí cần tập trung phòng, chống và kiểm soát bệnh chính là chìa khóa cho một hoạt động canh tác thành công. Lựa chọn địa điểm, nguồn nước và nguồn cung cấp cá cần được xem xét một cách cẩn thận. Tất cả cá trước khi thả cần phải kiểm soát các tác nhân gây bệnh. Lưới, giày, xô và các thiết bị thường được sử dụng phải làm vệ sinh một cách thường xuyên, đặc biệt là nếu chúng được sử dụng ở các vị trí khác nhau.
Mặc dù có một chương trình phòng chống dịch bệnh là rất quan trọng, nhưng nó không hẳn là một sự đảm bảo. Phương pháp kiểm soát làm giảm tác nhân gây bệnh, thiệt hại do bệnh cấp tính nên ít có khả năng xảy ra. Liệu pháp hóa học là hiệu quả nhất khi giảm thiểu căng thẳng môi trường và thực hành quản lí tốt sức khỏe được tuân thủ.
Phương pháp điều trị hóa học
Việc áp dụng các phương pháp điều trị hóa chất trong IPRS dựa vào nhiệt độ, nước chất lượng và ký sinh trùng/vi khuẩn phát hiện từ cá. Từ khi chi phí xử lí hóa học không phải là một yếu tố hạn chế trong IPRS giống như ao nuôi truyền thống, thì đó là một cách tiếp cận chủ động hơn để nuôi cá khỏe mạnh có thể được áp dụng. Thêm vào đó, formalin và hydrogen peroxide (đã được phê duyệt để điều trị cá thực phẩm), thuốc tím và đồng sunfat đã được sử dụng để xử lý nước ao. Tất cả các hóa chất đầu tiên cần được pha loãng với nước trước khi sử dụng để tránh “điểm nóng “có thể gây sốc cho cá.
Để điều trị một vèo riêng lẻ trong hệ thống IPRS, một rào cản là cần thiết để tiếp tục xử lí vèo nhằm kiểm soát chi phí mà phân bổ thời gian. Tại trại của Dean Wilson ở Browns, Alabama, Hoa Kỳ. Một rào bằng nhựa sắp xỉ chiều rộng của vèo được gắn vào một ống nhựa PVC dài 6m và đường kính 5cm. Các đường ống nằm trên đầu các vèo, một phần được tăng cường phía dưới nhằm giảm sức nổi của phần nhựa. Điều này cho phép lớp nhựa có thể trải dài khắp khu vực kênh mở.
Phương pháp điều trị chỉ được quản lí vào ban ngày, khi quang hợp lớn hơn hô hấp. Lưu lượng nước vào vèo được tắt, sục khí được áp dụng với một lưới khuếch tán và thổi tái sinh, các xử lí hóa học được đưa vào vèo và cá được theo dõi liên tục. Các phép đo xác định nồng độ ô xy hòa tan trong các vèo điều trị được khuyến cáo. Sau khi điều trị, các rào chắn bằng nhựa được lấy ra, lưu lượng nước được khởi động lại, sục khí được kích hoạt đơn giản hơn và không tốn kém nhưng hiệu quả trong điều trị các bệnh.
Chủ động quản lí sức khỏe
Ví dụ tốt nhất cho việc chủ động quản lí sức khỏe trong IPRS là điều trị định kì nước trong dòng chảy của vèo bằng thuốc tím nhằm giảm tải trọng hữu cơ. Có bằng chứng cho thấy sự tiếp xúc lặp đi lặp lại của hệ thống nuôi trồng thủy sản với các hợp chất giúp tăng cường sự tỉ lệ sống của cá và chuyển đổi thức ăn, đặt biệt là trong điều kiện thăm canh.
Năm ngày là thời gian tối thiểu giữa các phương pháp điều trị được đề nghị. Trong hệ thống thâm canh như IPRS, một tỉ lệ 5 ppm được khuyến khích ứng dụng trong 30 phút đến 1 giờ. Trong ao nuôi truyền thống, các ứng dụng từ 2 đến 4 ppm dựa trên cơ tải được khuyến khích. Đây là loại điều trị cũng như là một biện pháp phòng chống hoặc kiểm soát các loài nguyên sinh động vật sống trong nước như Ichthyobodo, sán lá monogenetic, và các vi khuẩn khác.
Nghiên cứu cho thấy, nồng độ cao kali permanganat có thể được bổ sung cho sinh vật phù du phát triển mà không ảnh hưởng tới sinh trưởng của cá. Một xét nghiệm sinh học đơn giản có thể được thực hiện để xác định nồng độ chính xác của kali permanganat cần thiết. Người nuôi ít quan tâm đến tỷ lệ ứng dụng cao của hóa chất và tỷ lệ tử vong liên quan đến sinh vật phù du do nồng độ ô xy hòa tan thấp trong IPRS từ khi khối lượng nước xử lí thường ít hơn 5% tổng khối lượng nước ao. Một số nông dân đã sử dụng giá trị trung bình của đĩa Secchi để đo lường khả năng hiển thị đĩa để ước tính sự phong phú của sinh vật phù du hay hữu cơ tập trung, đã hỗ trợ trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến xử lý nồng độ.
Formalin, diệt ký sinh trùng đã được phê duyệt cho sử dụng với cá da trơn là một điều trị tích cực trong IPRS. Các ứng dụng được đề nghị tỷ lệ này ở vèo là 150 ppm trong 30 phút. Một tỷ lệ điều trị vô thời hạn của 15 đến 25 ppm được khuyến khích cho ao. Trong thời gian nhiệt độ nước cao, oxy có thể thiếu trầm trọng sau khi điều trị. Vì vậy, cả IPRS và ao đều cần được cung cấp đủ ô xy để hỗ trợ sinh khối cho hệ thống.
Tổng chi phí cho điều trị formalin ở mức 150 ppm trong một vèo với 5 đơn vị nhỏ cho 2,3 ha ao ở Hoa Kỳ là $ 62,78. Ngược lại, điều trị ao 2,3 ha và sâu trung bình 1,67 m ở 20 ppm với formalin sẽ có chi phí $ 1,473 hoặc 641$ /ha. Tương tự, chi phí điều trị với thuốc tím thấp hơn nhiều ở một IPRS so với một ao đất truyền thống. Các chi phí điều trị hóa chất trong một hệ thống IPRS cũng thấp hơn so với điều trị riêng lẽ tại ao sản xuất tuyền thống, kể từ khi chia ao có diện tích nuôi cá lớn hơn, xấp xỉ 20% tổng diện tích ao.
Đáng chú ý là hệ thống vèo có thể được rữa tại cuối kì điều trị, có thể sử dụng được nhiều lần và tập trung xử lí hơn so với ao đất truyền thống, như đã trình bày ở ví dụ điều trị formaline. Hiện nay formalin không thường xuyên được sử dụng trong ao xử lí, vì nó có chi phí quá cao, do đó cách tiếp cận IPRS mở ra chi phí hợp lý trong phương pháp điều trị hóa chất.
Theo dõi điều trị
Ngoài các chi phí thấp hơn của xử lí nước trong IPRS so với ao truyền thống, nó dễ dàng hơn để giám sát và theo dõi tình trạng chết trong một IPRS.
Nông dân cũng đã lưu ý rằng do hiệu quả cho ăn tăng lên và khu vực nuôi nhỏ trong các hệ thống này, nó dễ dàng hơn nhiều để kiểm tra việc cung cấp và đáp ứng thức ăn kháng sinh của cá trong một IPRS. Ngoài ra còn tiết kiệm đáng kể thời gian và lao động – do đó chi phí thấp hơn khi điều trị trong vèo so với ngoài ao.
Quan điểm
Các IPRS ở Browns, Alabama, có khả năng sản xuất được 16.200 kg / ha cá da trơn ở hầu hết các chu kỳ sản xuất gần đây. Trong khi ao nuôi thăm canh truyền thống ới qui trình sản xuất tương tự, ao truyền thống thường chỉ sản xuất được 5000 – 6000/ha.
Hệ thống vèo trong ao có thể cung cấp một phương pháp sản xuất thay thế giúp giàm chi phí điều trị hóa học, nâng cao hiệu quả điều trị và cho phép các phương pháp điều trị mới được ứng dụng trong khi nó có chi phí quá cao trong ao nuôi truyền thống.
Nhiều thế hệ công nghệ IPRS hiện nay đã được thử trên các trang trại thương mại, trong đó giảm đáng kể trong chi phí hoạt động có thể giúp bù đắp đầu vào mà chi phí đã tăng lên, chẳng hạn như thức ăn chăn nuôi và điện. Khi thiết kế tiếp tục cải thiện bổ sung vốn và điều hành cắt giảm chi phí được thực hiện, các hệ thống IPRS trong tương lai là đầy hứa hẹn.
Tags: he thong nuoi veo trong ao, ao nuoi tom, xu ly ao nuoi thuy san, nuoi tom