Kỹ thuật nuôi thịt cua đồng ở Trung Quốc
Ao đất thường có kích thước giữa 0,6 đến 2 ha, với độ sâu 1,5-1,8 m, có hàng rào tương tự như ao ương để ngăn cua thoát ra ngoài và ngăn các loài địch hại xâm nhập ao.
Trước khi thả nuôi, ao thường được khử trùng bằng vôi (2.000 đến 3.000 kg mỗi ha) và 10 ngày sau khi khử trùng, thực vật thủy sinh, chẳng hạn như Vallisneria spiralis, Hydrilla verticillata, Ceratophyllum demersum, maackianus Potamogeton và Myriophyllum spicatum được trồng trong ao.
Một tháng hoặc hơn một tháng trước khi thả nuôi cua, ốc bùn sống (Bellamya purificata), là thức ăn ưa thích của cua được nuôi trong các ao (3.500 đến 4.500 kg mỗi ha) để chúng sinh sản làm thức ăn cho cua. Phân bón lên men hữu cơ áp dụng 10-20 ngày trước khi thả cua giống để tăng sinh khối thức ăn tự nhiên trong ao.
Mật độ thả giống cua giống đồng xu khoảng 7.500 cua mỗi ha, và chúng cũng thường được nuôi ghép với các loài cá nước ngọt khác nhau và tôm, có thể được thả vào các thời điểm khác nhau. Việc xem xét quan trọng để lựa chọn các loài cá nuôi ghép là thức ăn của chúng không cạnh tranh với cua. Trong thời gian nuôi, chất lượng nước cần phải được giám sát chặt chẽ.
Oxy hoà tan nên khoảng 5mg/L, pH 7-8,5 và độ trong giữa 50 và 80 cm. Năng suất mỗi ha mỗi năm thay đổi, tùy thuộc vào cường độ của nuôi ghép, nhưng thường gần 1.000 kg cua, cộng với khoảng 2.000 kg cá và tôm nước ngọt khác nhau.
Đối với nuôi đăng quần, mật độ thả giống từ 1.500 đến 9.000 con cua mỗi ha. Tại một số địa điểm với năng suất thức ăn tự nhiên tốt, cua không cần cho ăn bổ sung.
Tại những nơi năng suất tự nhiên thấp cần bổ sung ốc sen Bellamya purificata được thả từ 6,000-7,500 kg ốc cho mỗi ha trước khi thả nuôi cua và đôi khi thả bổ sung ốc một lần nữa sau khi thả cua giống.
Chế độ cho ăn bổ sung bao gồm cá tạp băm nhỏ và ngô và lúa mì nấu chín ở mức 7-8% trọng lượng cua mỗi ngày.
Tỉ lệ sống cua thịt thường khoảng 40-50%. Nuôi đăng quần đạt lợi nhuận cao hơn các phương pháp nuôi khác bởi vì có chất lượng nước tốt hơn và sử dụng được thức ăn tự nhiên. Ngoài ra, bởi vì mật độ thấp, cua phát triển lớn hơn và thu được giá cao hơn. Nói chung, năng suất từ nuôi đăng quần khoảng 150-450 kg mỗi ha, đôi lúc có thể đạt đến 1.000 kg mỗi ha.
Nuôi ruộng lúa cua thịt phổ biến ở miền bắc Trung Quốc. Cánh đồng lúa cần thiết kế cho phù hợp nuôi cua, như hàng rào, các kênh mương bao quanh và thực vật thủy sinh. Một trong những khác biệt chính là kênh mương bao quanh cần phải sâu hơn 1,5 mét. Ngoài ra, một ao nhỏ (100-200 m2 với độ sâu 1,5 m) cần phải được đào để thích nghi cho cua đồng xu có kích thước nhỏ và cho việc lưu trữ tạm thời cua thịt trong thời gian thu hoạch.
Mật độ thả trong nuôi ruộng lúa dao động từ 1 đến 1,5 con cua đồng xu cho mỗi mét vuông. Khi ruộng lúa đã trồng lúa, độ sâu nước thường được giữ ở mức thấp 5-10 tại cm. Nước được trao đổi thường xuyên hơn bởi vì mức độ thấp của nước trong ruộng lúa và việc thay nước thường xuyên nhằm tránh biến động lớn về nhiệt độ.
Bởi vì thức ăn tự nhiên trong các ruộng lúa tương đối thấp, cua cần phải được cho ăn bổ sung một lần hoặc hai lần một ngày với thức ăn bổ sung như lúa mì, ốc, cá tạp, tôm thùng rác hoặc ốc bùn. Nguồn thức ăn cung cấp này thường được nấu chín để tránh các vấn đề chất lượng nước trong vùng nước nông.
Với quản lý hợp lý, nuôi cua ruộng lúa có thể đạt được năng suất 300-450 kg mỗi ha, và đôi khi 750 kg cho mỗi ha. Mặc dù cua ăn trên cây lúa, chúng cũng ăn côn trùng và địch hại cây lúa nhờ đó có thể cải thiện sản xuất lúa gạo, và cua nuôi ruộng lúa được xem như cua “hữu cơ” sẽ có giá trị cao hơn khi bán ra thị trường và mang lại các lợi ích kinh tế đáng kể.
Thị trường cua Trung Quốc chủ yếu được tiêu thụ trong nước ở Trung Quốc mặc dù nó cũng được xuất khẩu sang các nước khác như Singapore dưới dạng cua cái mang trứng và cua lớn để có giá cao nhất.
Tags: cua dong, nuoi cua dong, nuoi cua, thuy san, nuoi trong thuy san, mo hinh nuoi cua