Bệnh đốm đen trên tôm thẻ chân trắng
Một số trường hợp khác tôm bị đốm đen chỉ được phát hiện khi thu hoạch dẫn đến giảm giá trị thương phẩm.
Quan sát và theo dõi các dấu hiệu lâm sàng cho thấy “bệnh đốm đen” rất giống với các triệu chứng của bệnh NHPB (Necrotizing hepatopancreatitis bacterium – hoại tử gan tụy) đã được mô tả và nghiên cứu trước đây.
Bệnh NHP (hoại tử gan tụy) do vi khuẩn gây ra hoàn toàn khác với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMS/AHPNS/AHPND mà ta đã biết.
Kiểm tra PCR tôm bị đốm đen cho kết quả hoàn toàn âm tính với EMS/AHPNS/AHPND (bệnh hoại tử gan tụy cấp tính gây ra bởi vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus bị nhiễm phage).
Để giúp người nuôi tôm hiểu rõ “bệnh” này hơn, cũng như giúp người nuôi có biện pháp kỹ thuật hiệu quả nhằm can thiệp sớm trong phòng bệnh và chữa trị, bộ phận kỹ thuật công ty chúng tôi đã tiến hành nhiều khảo sát và thống kê trên toàn quốc từ năm 2013 đến nay, đồng thời thực nghiệm đề ra biện pháp phòng và chữa trị tốt nhất để khắc phục tình trạng này.
1. DẤU HIỆU LÂM SÀNG
Nhìn chung, những ao nuôi có tôm bị “bệnh đốm đen” khi kiểm tra môi trường ao nuôi phần lớn đều có hàm lượng khí độc NH3 hoặc NO2 vượt ngưỡng cho phép, độ kiềm dưới 100 ppm kéo dài và hàm lượng oxy không đạt ngưỡng tối ưu 6 ppm trong suốt thời gian nuôi.
“Bệnh đốm đen” xảy ra ở các độ mặn khác nhau từ 5‰ cho đến 20 – 25‰.
Thời gian xảy ra bệnh từ giai đoạn 20 ngày tuổi cho đến 90 ngày tuổi, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở giai đoạn 25 – 45 ngày tuổi.
Tôm thường có tỷ lệ mắc “bệnh đốm đen” cao vào giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi bất thường diễn ra kéo dài trong 5 – 10 ngày, hoặc nhiệt độ nước trên 29 độ C trong thời gian dài.
Tuy vậy, tôm vẫn có thể mắc phải bệnh này trong suốt năm bất kể ở tình trạng thời tiết nào.
Tỷ lệ chết có thể lên đến 95% trong vòng 15 – 30 ngày kể từ khi phát hiện bệnh nếu không có bất kỳ biện pháp chữa trị nào được áp dụng ngay tức thời đối với trường hợp ao nuôi ô nhiễm nặng và hàm lượng vi khuẩn trong nước ao nuôi vượt ngưỡng gấp nhiều lần.
Quan sát tôm bệnh thường thấy các dấu hiệu lâm sàng như sau:
– Tôm lờ đờ, giảm ăn hoặc bỏ ăn.
– Tốc độ tăng trưởng chậm.
– Trên thân xuất hiện nhiều đốm đen li ti hoặc mãng lớn màu đen, mang màu tối hoặc đen, đuôi mỏng, có thể có những tổn thương phụ bộ như mòn đuôi và vảy râu, cụt râu …
– Đối với những trường hợp bệnh nặng ruột rỗng, gan tụy nhợt nhạt, bề mặt thân tôm bị đốm đen có thể có mùi hôi.
2.DIỄN BIẾN BỆNH
Ở giai đoạn đầu của bệnh dấu hiệu lâm sàng dễ nhận thấy nhất là đàn tôm bắt đầu có hiện tượng tồn thương các phụ bộ như mòn đuôi, cụt râu, tuy nhiên tôm vẫn ăn bình thường, không có bất kỳ biểu hiện nào cho thấy gan yếu, nhợt nhạt và đường ruột vẫn đầy thức ăn.
Một dấu hiệu cơ bản khác để phát hiện sớm bệnh là râu và đuôi của tôm chuyển sang màu đỏ (dấu hiệu nhiễm khuẩn nặng), đuôi có thể bị phồng nhẹ, nhưng các dấu hiệu tổn thương rõ ràng như trên chưa xuất hiện.
Giai đoạn kế tiếp của bệnh xuất hiện nhiều đốm đen rải rác trên vỏ tôm.
Các đốm đen có thể xuất hiện cả trên giáp đầu ngực, và toàn thân tôm, nhiều trường hợp quan sát tôm chỉ thấy vài vết đen giữ lưng, đầu hoặc ở đuôi có gây hiểu nhầm do mật độ tôm cao nên đâm nhau trong quá trình hoạt động và gây tổn thương vỏ.
Giai đoạn này tôm bắt đầu giảm ăn dần đến bỏ ăn, tốc độ tăng trưởng chậm, chết rải rác trong ao, trong vó.
Có thể xuất hiện tình trạng tôm bị trắng lưng, đục thân và lột xác không hoàn toàn (dính vỏ, dính chân).
Giai đoạn nặng hơn tỷ lệ chết tăng cao, tỷ lệ tôm xuất hiện đốm đen trên thân tăng cao và nhanh, có thể chiếm đến 70% đàn tôm.
Gan tụy nhợt nhạt, tôm tấp mé, ruột rỗng (nhưng không phải là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính EMS).
3. THEO DÕI SỨC KHỎE ĐÀN TÔM
Thông thường người nuôi thường bắt đầu quan sát tôm trong vó sau 20 ngày tuổi, nhiều trường hợp khi bắt đầu quan sát lần đầu tiên trong vó đã thấy tôm bị đốm đen.
Các biện pháp kiểm tra tổng thể đàn tôm sau đó như chài (với chài có kích thước mắt lưới nhỏ) hoặc đặt lồng bắt tôm cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh có thể lên đến 30 – 40% trong đàn.
Cũng có nhiều trường hợp người nuôi ít khi có thói quen đánh giá tình trạng sức khỏe tôm qua vó hoặc không chài tôm kiểm tra định kỳ hàng tuần sau khi tôm đạt 25 ngày tuổi nên khi phát hiện bệnh qua vài con tôm cập mé, lờ đờ, xuất hiện đốm đen thì các biện pháp đánh giá tổng thể đàn tôm bằng chài lúc này thường cho kết quả đàn tôm đã nhiễm bệnh với tỷ lệ cao.
4. TỐC ĐỘ LAN TRUYỀN BỆNH
Tùy theo điều kiện môi trường ao nuôi và sức khỏe của tôm mà tốc độ phát triển và lây lan bệnh trong đàn tôm nhanh hay chậm.
Ghi nhận và thống kê hàng trăm trường hợp ao nuôi bị “bệnh đốm đen” cho thấy tốc độ lây lan rất nhanh đối với các ao nuôi ô nhiễm nặng, hàm lượng khí độc NH3, NO2 và H2S cao, hàm lượng oxy thấp dưới 04 ppm và không ứng dụng qui trình sử dụng vi sinh định kỳ trong ao nuôi hoặc công tác chuẩn bị ao, tẩy trùng diệt khuẩn trong giai đoạn này không được thực hiện hoàn chỉnh.
Các kiểm tra vi khuẩn gây bệnh trên môi trường TCBS cho thấy mật số vi khuẩn gây bệnh trong môi trường nước từ 105 CFU/ml.
5. PHÒNG BỆNH
Hiện tại chúng tôi vẫn chưa có điều kiện để xác định rõ ràng nguyên nhân gây bệnh là gì, tuy nhiên như trình bày ở trên, mọi dấu hệu lâm sàng, lan truyền bệnh và kiểm tra vi khuẩn gây bệnh tổng số trên tôm bệnh cũng như trong môi trường nước có thể kết luận ban đầu tôm bị bệnh đốm đen là do vi khuẩn gây ra và gần như giống hoàn toàn với các mô tả về bệnh NHP (hoại tử gan tụy, hay còn có tên gọi khác là NHPB).
Về nguyên tắc, phần lớn các bệnh do nhiễm khuẩn và và có tốc độ lây lan nhanh trong bầy đàn đều có thể nhiễm theo chiều dọc (từ tôm bố mẹ, trại giống) và chiều ngang (từ môi trường), dựa trên cơ sở lý luận cơ bản đó, việc phòng bệnh tất nhiên phải theo hướng chú trọng đến các biện pháp cải tạo và duy trì chất lượng môi trường ao nuôi tốt.
Các biện pháp phòng bệnh được trình bày bên dưới:
– Quá trình cải tạo ao cần phải diệt khuẩn kỹ lưỡng, trước và sau khi diệt khuẩn cần thực hiện kiểm tra đánh giá mật số vi khuẩn gây bệnh bằng biện pháp đơn giản nhất là dùng đĩa thạch TCBS, qua đó có thể đánh giá công tác loại bỏ phần lớn mầm bệnh trong ao nuôi có đạt yêu cầu hay không.
– Kiểm tra chất lượng tôm giống bằng kỹ thuật PCR không chỉ với bệnh EMS, đốm trắng, IHHNV, IMNV mà cả NHP.
– Mật độ thả phù hợp với thiết kế cơ sở hạ tầng, hệ thống quạt nước cung cấp oxy, độ sâu mực ước ao nuôi, mùa vụ cũng nhưng kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật, mức độ am hiểu về tôm thẻ chân trắng của chính người nuôi.
– Sử dụng các chế phẩm sinh học (probiotic) định kỳ và thường xuyên trong ao nuôi ít nhất trong 60 ngày đầu thả nuôi.
– Kiểm tra mật số vi khuẩn gây bệnh định kỳ 5 – 7 ngày/lần nhằm có biện pháp can thiệp kịp thời khi phát hiện mật số vi khuẩn tăng cao hơn 103 CFU/ml.
– Bổ sung khoáng chất và các chất tăng cường khả năng diệt khuẩn, tăng khả năng đề kháng của tôm trong ít nhất 45 ngày đầu thả nuôi và tốt nhất nên bổ sung ngay sau khi thả tôm.
– Điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp, tránh dư thừa sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh phát triển nhanh.
– Kiểm tra hàm lượng oxy trong ao nuôi thường xuyên để có biện pháp khắc phục tình trạng thiếu oxy cục bộ, kéo dài trong ao nuôi dễ gây stress cho tôm và qua đó ảnh hưởng đến sức khỏe tôm nuôi, dễ nhiễm bệnh.
– Nên đặt vó kiểm tra tôm sau 15 ngày thả nuôi nhằm có thể phát hiện sớm bệnh.
6. BIỆN PHÁP CHỮA TRỊ
Tùy theo cường độ cảm nhiễm của bệnh, sức khỏe tôm, và thời gian phát hiện bệnh mà các biện pháp chữa trị áp dụng có hiệu quả hay không.
Phác đồ chữ trị chung cho bệnh đốm đen được thực hiện như sau:
Đối với môi trường nước
1. Tiến hành diệt khuẩn trong ao bằng sản phẩm phù hợp tùy theo giai đoạn tuổi tôm.
Quá trình này có thể lập lại 2 – 3 lần tùy theo tỷ lệ nhiễm bệnh trong ao.
2. Cấy vi sinh lại với hàm lượng cao sau 36 giờ diệt khuẩn.
Có thể bổ sung mật rỉ đường để điều chỉnh pH và giảm hàm lượng khí độc trong ao.
3.Tăng cường sụt khí
Đối với tôm
1. Giảm cho ăn từ 10 – 30% lượng cho ăn hàng ngày.
2. Bổ sung vitamin C, khoáng chất, vitamin tổng hợp và hoạt chất tăng cường hệ miễn dịch cho tôm.
Tuyệt đối không sử dụng kháng sinh trong quá trình điều trị vì chúng có khả năng gây lờn thuốc nếu sử dụng không đúng cách, tái nhiễm với cường độ cao hơn dẫn đến khó chữa trị, nhiễm bệnh khác vì vô tình gây ra tình trạng lờn thuốc, biến thể với chủng vi khuẩn gây bệnh khác.
Với tỷ lệ nhiễm bệnh dưới 40% bầy đàn, môi trường không bị ô nhiễm trầm trọng và sức khỏe bầy tôm tốt, phác đồ chữa trị trên hoàn toàn có thể giúp người nuôi vượt qua giai đoạn khó khăn và có một mùa vụ thành công.
Phác đồ chữa trị đơn giản trên phát huy hiệu quả hay không còn tùy thuộc và chất lượng sản phẩm mà người nuôi sử dụng.
Với những sản phẩm chất lượng cao và phù hợp giai đoạn bệnh hầu hết 90% các trường hợp chữa trị đều mang đến thành công.