Tầm quan trọng của an toàn sinh học và khử trùng trong nuôi trồng thủy sản (Phần 3)
Chẩn đoán sức khỏe
Một số dấu hiệu cảnh báo sớm dịch bệnh ở tôm, tôm thương phẩm hoặc cá bao gồm sự thay đổi về biểu hiện hoặc vẻ bên ngoài, giảm hoặc bỏ ăn, cũng như gia tăng bệnh tật (bệnh một lần) và sự suy vong (tử vong). Trong nhiều trường hợp, có hai hoặc nhiều yếu tố, chẳng hạn như thay đổi trong chất lượng nước, xử lý, ký sinh trùng hoặc vi khuẩn, sẽ góp phần làm bùng phát dịch bệnh và mỗi yếu tố phải được điều chỉnh.
Tư liệu về chất lượng nước và các hoạt động quản lý nên được xem xét lại để có sự cảnh báo sớm và cần điều chỉnh đối với bất kỳ vấn đề nào. Các chương trình dinh dưỡng cần được xem xét đầy đủ (điều này sẽ thay đổi tùy theo nhu cầu của loài và giai đoạn sống) và việc lưu trữ thức ăn nên được đánh giá để đảm bảo thức ăn được bảo quản đúng cách (nhiệt độ mát, độ ẩm thấp và trong thời gian tối thiểu).
Tôm, tôm thương phẩm và cá nên được đánh giá, tốt nhất là với sự hỗ trợ của chuyên gia y tế. Các cảnh báo sớm bao gồm thay đổi biểu hiện, thiếu thức ăn và bất kỳ dấu hiệu rõ ràng bên ngoài nào của bệnh (ví dụ như đốm trắng, xuất huyết, vi khuẩn phẩy hay sự hiện diện của động vật nguyên sinh hoặc nấm). Một mẫu đại diện của tôm, tôm thương phẩm và cá bị bệnh cần phải được cung cấp cho ban khám nghiệm xác sinh vật chết. Ban khám nghiệm nên có các bước kiểm tra tất cả các mô để nhận diện và phát hiện những bất thường; tìm ký sinh trùng bên ngoài và bên trong; sự nuôi cấy vi sinh vật của các cơ quan thích hợp; mô bệnh học; và về virus học, nếu được bảo đảm. Bất kỳ phương pháp điều trị thiết yếu nào cũng cần phải dựa trên kết quả từ tất cả các xét nghiệm thích hợp.
Kiến thức về việc các phương pháp điều trị ảnh hưởng đến hệ thống như thế nào cũng rất quan trọng. Việc sử dụng hợp lý chúng trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản cần được tìm hiểu và tất cả các vấn đề liên quan cần được xác định trước khi sử dụng. Làm việc với các chuyên gia thật sự am hiểu về nuôi trồng thủy sản trước khi bắt đầu mạo hiểm nuôi trồng thuỷ sản. Những nỗ lực như vậy sẽ tối đa hóa cơ hội thành công.
Các thiết kế và các thành phần của hệ thống an toàn sinh học tiếp tục được nâng cấp và hợp thức hóa, nhưng các nguyên tắc quản lý cơ bản vẫn không thay đổi. Y khoa dự phòng là rất quan trọng. Y học dự phòng bao gồm sự chú ý thích hợp đến sinh học, di truyền học, chất lượng nước, dinh dưỡng, thiết kế hệ thống, kiểm dịch, vệ sinh, khử trùng và quản lý chung. Hiểu biết về các bệnh phổ biến cũng rất quan trọng. Các bệnh truyền nhiễm và không lây nhiễm phổ biến sẽ biến đổi từ loài này sang loài khác.
Điều quan trọng hàng đầu là phải hiểu được ý nghĩa nghiêm trọng của việc không thực hiện chiến lược an toàn sinh học, đánh giá định lượng rủi ro, giám sát thường xuyên và lưu giữ hồ sơ chi tiết. Điều này đặc biệt quan trọng trong các hệ thống hoạt động nuôi trồng thủy sản của chúng ta, nơi những kẻ ăn thịt, kẻ ăn xác thối và kẻ săn trộm có thể gây ra các mối đe dọa nghiêm trọng trong việc vận chuyển virus gây bệnh, vi khuẩn, động vật nguyên sinh, nấm … từ nơi này sang nơi khác.
An toàn sinh học là phương pháp quản lý để ngăn ngừa các động vật không bị nhiễm bệnh, tránh khỏi sự tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh hoặc ký sinh trùng. Các biện pháp an toàn sinh học phổ biến bao gồm:
1. Vệ sinh – Vệ sinh bao gồm việc tẩy rửa và khử trùng các trại sản xuất giống, bể chứa, ao, dụng cụ xử lý và tiêm chủng… Cần phải làm sạch trước khi khử trùng. Thuốc khử trùng bao gồm clo, hơi nóng, hơi nước, formalin, và các hợp chất hóa học khác. Tất cả các chất khử trùng hóa học rất độc hại, vì vậy tất cả thiết bị phải được rửa kỹ sau khi khử trùng.
2. Sự lây truyền bệnh dọc – Bệnh truyền qua đường thẳng (từ cha mẹ sang con) có thể được ngăn ngừa bằng cách sử dụng các bố mẹ khỏe mạnh, không bệnh.
3. Sự khử trùng trứng – sự khử trùng trứng với I-ốt hoặc các giải pháp khác tại thời điểm các nước xơ cứng trứng có thể làm giảm tỉ lệ mắc bệnh của trứng và ấu trùng.
4. Giao thông – việc hạn chế người và thiết bị giao thông có thể giúp làm giảm nguy cơ lây truyền bệnh từ cơ sở này sang cơ sở khác.
5. Xử lý nước – các phương pháp xử lý nguồn nước ra vào hoặc tuần hoàn nước làm giảm nguy cơ gây bệnh cho sinh vật đang xâm nhập vào hệ thống nuôi. Phương pháp xử lý bao gồm lọc cơ học, ánh sáng tia cực tím UV và ozon.
6. Xử lý nước thải – xử lý nước thải từ cơ sở vật chất của nuôi trồng thủy sản và nhà máy chế biến làm giảm sự phát tán vi sinh vật vào môi trường. Điều này rất quan trọng, bởi vì đã xảy ra vấn đề này trong quá khứ với việc dịch bệnh đã xâm nhập lại vào cơ sở nuôi trồng thủy sản từ nước thải của một nhà máy chế biến. Nước nhiễm khuẩn từ các nhà máy đã thoát ra, và sau đó được đưa vào hệ thống nuôi trồng thủy sản.
7. Thức ăn sạch – điều quan trọng là sử dụng thức ăn sạch sẽ, thức ăn tươi. Xử lý và lưu trữ thức ăn đúng cách có thể làm giảm loại thức ăn mang mầm bệnh cho các sinh vật.
8. Xử lý sinh vật tử vong – xử lý thích hợp tỷ lệ tử vong bằng cách đốt, chôn cất, hoặc ủ sẽ làm giảm nguy cơ tái sinh bệnh. Cũng rất quan trọng để loại bỏ cá chết từ những hồ chứa hoặc mương để giảm khả năng lây nhiễm.
Một trong những thách thức các nhà nuôi trồng thủy sản phải đối mặt là làm cho tất cả các giai đoạn sống các sinh vật của họ phù hợp với điều kiện vệ sinh và an toàn sinh học. Một chương trình an toàn sinh học toàn diện nên được đặt ra. Đây là điều cần thiết trong việc chống và ngăn ngừa dịch bệnh.
Với sự gia tăng nhanh chóng trong nuôi thâm canh, nhu cầu về thuốc khử trùng cũng đã tăng lên. Sự xâm nhập và tăng trưởng của các tác nhân gây bệnh phải được giảm thiểu thông qua việc sử dụng thuốc khử trùng trong nước, trên hồ chứa, các thiết bị, và trong trứng giống. Chất khử trùng được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản nhằm mục đích nhắm vào tất cả các loại tác nhân truyền nhiễm (bao gồm các vi khuẩn, nấm, virus và động vật nguyên sinh). Chất khử trùng giết chết các sinh vật gây bệnh bằng cách giải phóng thích hợp lượng clo hoặc I-ốt hoặc các hợp chất khác.
Sự gia tăng của các mầm bệnh
Mầm bệnh. Từ gợi lên suy nghĩ khủng khiếp của bệnh dịch và cái chết. Nó xuất phát từ chữ Hy Lạp của ‘cảm giác’ hoặc ‘bệnh’. Nó xuất phát từ những đứa trẻ với chiếc mũi đầy mũi dãi mà bạn thấy từ nhà giữ trẻ. Chúng đã bị lây nhiễm bệnh mũi từ một số đứa trẻ khác mà cha mẹ chúng thì không siêng năng làm vệ sinh. Đơn giản hóa quá mức có thể, nhưng các nguyên tắc là như nhau cho dù đó là người hoặc cá: mầm bệnh có thể chuyển tiếp và người hoặc cá nhận được bởi việc các mầm bệnh làm ra một bản sao của chính chúng.
Mầm bệnh là những sinh vật gây bệnh. Chúng có thể là virus, vi khuẩn, nấm hoặc ký sinh. Ở kích thước quy mô, virus có thể được mở rộng đến nanomet (hàng triệu milimét) và chỉ có thể nhìn thấy được với một kính hiển vi điện tử, trong khi vi khuẩn thì được mở rộng đến micromet (hàng nghìn milimét) và có thể nhìn thấy với kính hiển vi ánh sáng ở cường độ cao. Nấm và ký sinh trùng đều ở vĩ mô và vi mô.
Mặt chung trong số tất cả các mầm bệnh là khi có sự hiện diện của một lượng đủ lớn, chúng sản xuất chất độc, gây rối loạn chức năng tế bào, hoặc lạm dụng nguồn tài nguyên của vật chủ trong khi đó là sự cung cấp thức ăn cần cho chính bản thân chúng để sinh sản. Không phải là một cách nghĩ dễ chịu.