Kỹ thuật trồng và chăm sóc Bầu
Cây bầu có nguồn gốc từ châu Phi và Ấn Độ, ngày nay được trồng rộng rãi ở các nước vùng nhiệt đối và á nhiệt đới trên thế giới. Quả bầu non là bộ phận sử dụng để luộc, nấu canh hay xào khi ăn hoặc thái nhỏ, phơi khô để ăn dần.
Quả bầu non chứa 90,7% nước; 0,7% đạm; 0,2% chất béo; 6,3% chất bột đường; 1,5% chất xơ và 0,6% chất khoáng. Tỷ lệ chất dinh dưỡng ở bầu kém hơn các cây khác trong họ nhưng thịt quả non ngọt, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, có thể chữa bệnh đái tháo đường và mụn lở. Hoa và hạt bầu cũng được sử dụng làm thuốc trong Đông y.
Vỏ quả già rất cứng dùng làm chai, lọ hay chế tạo đồ gia dụng. Ngoài ra bầu dễ trồng, sản lượng cao, thích hợp vối điều kiện đất đai và khí hậu rộng rãi nên được ưa chuộng trong sản xuất.
Bầu là loại dây leo, có tua cuốn, phân nhánh. Thân được phủ nhiều lông mềm, có lá hình tim rộng, không xẻ thuỳ hay xẻ thuỳ hơi nông, hoa đơn tính.
Có nhiều giống bầu khác nhau bởi hình dáng, kích thước của quả, như quả hình bầu to hay là bầu sao dài tỏi 1m, quả hình trụ trên mặt vỏ có nhiều đốm, hoặc giống màu trắng có tên gọi là quả ấm, quả hồ lô vì quả bầu có hình chuông, giữa quả thắt lại, phần dưới và phần trên quả phình to ra, nhưng dưới to hơn trên dài khoảng 25 – 40cm. Khi còn non quả mềm, màu xanh nhạt; nhưng khi già vỏ quả lại rất cứng và chuyển màu vàng trắng.
Quả bầu còn non được sử dụng làm thức ăn như: xào, nấu canh, luộc. Khi để quả quá già thì chỉ khoét bỏ ruột lấy vỏ làm gáo hoặc làm đồ chứa đựng. Bầu làm thuốc được thu hái vào mùa thu khi quả chưa chín hẳn. Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là quả và hạt; tuy nhiên người ta còn sử dụng cả lá, tua cuốn, hoa, rễ để trị bệnh. Những quả già vỏ cũng được sử dụng làm thuốc trị bệnh.
Đông y cho rằng, bầu vị hơi nhạt, tính mát (có tài liệu lại cho là vị ngọt, tính lạnh), có công hiệu giải nhiệt, giải độc, lợi tiểu, nhuận phổi, trừ ngứa; chủ trị các chứng như: chướng bụng, phù thũng, tiểu tiện ít, phổi nóng, ho…
Thịt quả bầu vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, được dùng trị chứng tiểu rắt, phù nề, đái tháo, mụn lở. vỏ bầu vị ngọt, tính bình, có tác dụng lợi tiểu, tiêu thũng nên cũng được dùng cho các chứng bệnh phù thũng, bụng chướng. Hạt bầu đun Ịấy nước súc miệng chữa bệnh sưng mộng răng lung lay, tụt lợi.
Lá bầu có vị ngọt, tính bình, có thể làm thức ăn chống đói. Tua cuốn và hoa bầu có tác dụng giải nhiệt, thải độc, nấu tắm cho trẻ em phòng ngừa đậu, sởi, lở ngứa. Quả bầu già sắc lên lấy nước uống có tác dụng lợi tiểu, chữa bệnh phổi phù nước (nhưng chỉ nên dùng kết hợp trị liệu trong bệnh phù nước khi ở cơ sở cấp cứu).
Ngoài ra còn thấy ở Ấn Độ người ta dùng hạt bầu trong trị bệnh phù và làm thuốc trị giun; hay dầu hạt bầu sử dụng trị chứng đau đầu. Còn loại bầu đắng thì tính lạnh, hơi độc, tác dụng lợi tiểu, thông tiểu, tiêu thũng.
Tuy nhiên không sử dụng bầu cho những người bị phong hàn, ăn không tiêu vì bầu có tính mát nên sẽ gây đau bụng nếu ăn nhiều.
Kỹ thuật trồng và chăm sóc Bầu
– Chọn giống:
Bầu có nhiều giống nhưng trồng phố biến ở vùng đồng bằng gồm có:
+ Bầu thước: Quả hình trụ, dài 60 – 80cm, vỏ màu xanh nhạt, cho nhiều quả trên đất phù sa màu mỡ, quả chứa ít hạt, hạt già màu nâu, trơn, láng. Canh tác bầu thước phải làm giàn.
+ Bầu sao: Quả hình trụ, dài 40 – 60cm, vỏ màu xanh đậm điểm những đốm trắng. Bầu sao thích nghi với điều kiện đất rộng rãi nên được trồng phổ biến hơn bầu thước. Một số nơi trồng bầu sao bò trên đất. Bầu vẫn cho quả nhúng quả ngắn. Bầu sao chứa nhiều hạt, hạt già màu nâu sậm với nhiều lông tơ trắng.
+ Bầu thúng hay bầu nậm: Quả có hình dáng như cái bình với phần dưới phình to, quả nhiều ruột và hạt nên ít được ưa chuộng trong sản xuất.
+ Bầu trắng: Trồng phổ biến ở Tiền Giang và vùng phụ cận thành phố Hồ Chí Minh. Bầu cho quả ngắn, từ 30 – 40cm, hình trụ, kích thước đầu và cuối quả bằng nhau. Bầu trắng được ưa chuộng nhờ cho nhiều quả, từ 30 – 40 quả/cây, quả nhỏ vừa dễ mua và dễ ăn trong ngày, phẩm chất ngon. Bầu có thể trồng giàn hay bò đất.
– Thời vụ:
Có thế trồng quanh năm. Vụ mùa nắng cây ít bệnh và cho năng suất cao hơn mùa mưa.
– Mật độ, khoảng cách:
Liếp rộng 0,7m, tim liếp này cách tim liếp kia 1m, liếp cao 0,3m (tuỳ theo mùa vụ và mực thuỷ cấp). Trồng 1 hàng, cây cách cây 0,8m. Lượng hạt giống cần cho 1ha là 300 – 400g.
– Cách trồng:
Đào hốc kích thước 50 X 50 X 30cm, hốc cách nhau 1m, bón nhiều phân chuồng hay phân cỏ hoai mục và khoảng 100g phân hỗn hợp NPK cho mỗi hốc trước khi trồng.
– Chăm sóc:
+ Tưới nước, bón thúc:
Bầu cần nhiều nước, do đó phải tưới thường xuyên 1 – 2 lần/ngày cho đủ ẩm. Lượng nước tưới cần gia tăng khi bầu mang quả.
Bón thúc cho bầu vào 2 giai đoạn cần thiết như sau:
• Giai đoạn tăng trưởng:
Kể từ khi trồng đến khi bầu lên giàn (60 ngày sau khi trồng). Bón thúc thường xuyên mỗi tuần một lần để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cây ra hoa kết quả.
• Giai đoạn ra hoa, đậu quả:
Bón thúc nuôi quả 7 – 10 ngày một lần với lượng phân gia tăng dần để quả to và nhiều quả.
Trong suốt thời gian canh tác (130 – 140 ngày) mỗi hốc bón từ 1 – 1,5kg phân hỗn hợp NPK.
+ Lấp dây, làm giàn:
Trồng bầu giàn khi bầu mọc dài được 1m bắt đầu khoanh dây vòng gốc, lấy đất chặn lên ngay đốt, cách 1 – 2 đốt lại chặn đất để tranh thủ cho bầu ra rễ bất định, tăng khả năng thu hút dinh dưỡng nuôi quả sau này. Trồng được 2 tháng mới nương dây cho bầu leo giàn, cần để dây ở thế tự nhiên, không lật úp hay xoắn dây. Nên làm giàn bằng để bầu đủ diện tích bò, nếu dàn không thích hợp hay quá nhỏ không đủ để bầu bò, bầu cho ít quả hay thay đổi dạng quả và kích thước quả, không đạt tiêu chuẩn quả thương phẩm của giống. Bầu vừa lên giàn là trổ hoa đậu quả, 75 – 90 ngày sau khi trồng bầu bắt đầu cho thu hoạch.
+ Tỉa nhánh, bấm ngọn:
Bầu ra nhiều dây nhánh và mang quả ở dây nhánh. Các dây nhánh ở đoạn thân từ gốc lên đến giàn nên tỉa bỏ để gốc được thoáng. Khi bầu lên giàn thì không tỉa nữa để dây nhánh cho quả. Lấy được quả trên nhánh nào thì bấm ngọn để quả phát triển lớn và bầu tiếp tục cho quả ở dây nhánh khác.
+ Phòng trừ sâu bệnh:
Sâu hại bầu gồm ruồi đục lòn lá (Lyriomyza spp.), rầy mềm (Aphis sp.), bọ rầy dưa (Aulacophora similis). Phun thuốc khi thấy các côn trùng nầy xuất hiện.
Bệnh gây hại cho bầu thường gặp như bệnh héo cây con do nấm Rhizoctonia solani, bệnh khảm do virus, bệnh thán thư do nấm Colletotrichum lagenarium trong mùa mưa và bệnh phấn trắng do nấm Sphaerotheca fuliginea trong mùa khô. Trong thực tế do diện tích trồng ít, giá trị kinh tế của bầu không cao nên nông dân thường không phun ngừa thuốc trị bệnh, chỉ nhổ bỏ cây bệnh hay ngắt bó lá bệnh nếu có.
– Thu hoạch và để giống:
Quả bầu phát triển 10 – 12 ngày sau khi trổ hoa là có thể thu hoạch để ăn, cắt quả khi vỏ còn mềm, quả thon dài, hạt bên trong vừa tượng là ngon. Không nên để quả già, vỏ hạt bên trong đã cứng, ăn kém ngon và cây mau tàn. Nếu chăm sóc tốt giàn bầu 100 gốc cho thu quả 2 – 3 ngày/lần; lúc rộ thu hoạch mỗi ngày, thu liên tục 60 ngày bầu mới tàn.
Mỗi gốc trung bình cho từ 10 – 15 quả, muốn lấy giống phải để quả già, dây nào để quả giống thì không cho quả tươi nữa. Chọn quả tốt gần gốc, giữ cho đến khi dây tàn, vỏ quả chuyển sang vàng, hóa gỗ. Thu quả giống về treo nơi thoáng mát cho hạt bên trong chín đầy đủ, cắt bỏ đầu và cuối quả, bổ phần giữa lấy hạt rửa sạch, phơi khô rồi cất giữ trong chai lọ lớn.