Tôm Hùm là đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao. Từ năm 1992, một số loài tôm Hùm như tôm Hùm bông (Panulirus ornatus), tôm Hùm sỏi (Panulirus longipes); tôm Hùm đá (Panulirus stimpsoni), tôm Hùm xanh (Panulirus hormarus) và tôm Hùm sen (Panulirus versicolor) được ngươi dân các tỉnh miền Trung bắt giống từ tự nhiên nuôi thành cỡ thương phẩm. Nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh từ năm 2000 mang lại công ăn việc làm và thu nhập chongư dân các tỉnh Khánh Hoà, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Định và Bình Thuận.
Trước tháng 10/2006, tôm hùm thường mắc một số bệnh với triệu chứng đỏ thân, đen mang, cong thân, long đầu, hàu bám, mòn đuôi, mang cục nhày, to đầu, dính vỏ (khi lột xác), mềm vỏ, trắng râu, cụt chân. Các bệnh này không xảy ra trên diện rộng và không gây ra thiệt hại lớn, người nuôi đã được các cơ quan quản ý thủy sản địa phương; các Viện, Trường hướng dẫn áp dụng có hiệu quả các biện pháp phòng và trị bệnh.
Từ cuối năm 2006 đến nay, tôm hùm nuôi mắc bệnh “tôm sữa” với các triệu chứng điển hình: đốt thân giáp đầu ngực chuyển màu sáng đục sau đó lan dần xuống các đốt phía đuôi, khi bị bệnh tôm bỏ ăn và chết sau 2-5 ngày mắc bệnh. Khi giải phẫu cho thấy gan tuỵ và đốt thân có màu trắng đục bị hoại tử, có màng nhày màu trắng sữa kèm theo mùi hôi chảy ra.
Bệnh xuất hiện lần đầu tiên vào mùa mưa năm 2006 tại xã đảo Cam Bình (Cam Ranh, Khánh Hoà), sau đó xảy ra trên diện rộng ở các vùng nuôi khác như Vũng Ngán (Nha Trang, Khánh Hoà), Đầm Môn (Vạn Ninh, Khánh Hoà); xuân Thọ 1 (Sông Cầu, Phú Yên); Vĩnh Tân (Tuy Phong, Bình Thuận) gây chết từ rải rác đến hàng loạt tôm hùm thương phẩm và đang diễn biến hết sức phức tạp tại nhiều địa phương. Tỉ lệ tôm chết do bệnh “tôm sữa” một số vùng lên đến 50% – 60% như tại Sông Cầu (Phú Yên) và một số vùng nuôi ở tỉnh Khánh Hoà.
Bộ Thủy sản (cũ) đã chỉ đạo điều tra tìm giải pháp phòng trị bệnh “tôm sữa”. Dựa trên kết qủa điều tra ban đầu, các cơ quan chức năng địa phương và các Viện, Trường đã hướng dẫn người nuôi áp dụng một số biện pháp phòng bệnh “tôm sữa”.
Để nhanh chóng tìm ra tác nhân, nguyên nhân gây bệnh và biện pháp phòng trị các bệnh tôm Hùm, đặc biệt là bệnh “tôm sữa”, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã ban hành Quyết định số 2820/QĐ-BNN-CLTY ngày 26/9/2007 thành lập Tổ công tác giải quyết bệnh dịch tôm Hùm nuôi tại các tỉnh miền Trung.
Trong thời gian trước mắt, để giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi cần khẩn trưởng áp dụng các biện pháp phòng trừ bệnh dưới đây:
1. Đối với các hộ nuôi tôm Hùm:
– Lựa chọn mua giống tôm Hùm chất lượng tốt, khoẻ mạnh, không có triệu chứng lâm sàng mắc bệnh, đặc biệt là bệnh “tôm sữa”.
– Sử dụng thức ăn có chất lượng tốt, được đánh bắt ngoài tự nhiên ngoài những vùng nhiều bệnh, bảo quản tốt và sát trùng thức ăn (có thể sử dụng thuốc tím, nồng độ 3 – 5 mg/l) trước khi cho ăn. Bổ sung các loại vitamin va chế phẩm sinh học theo hướng dẫn để giúp tôm tăng sức đề kháng cho tôm. Loại bỏ thức ăn dư thừa sau 2-3 giờ cho ăn ra khỏi hệ thống nuôi để hạn chế ô nhiễm cục bộ nền đáy lồng/bè nuôi.
– Thường xuyên vệ sinh lồng bè cẩn thận. Không xả thải rác xuống khu vực nuôi kể cả thức ăn thừa của tôm.
– Tránh gây sốc cho tôm, cần đưa các lồng nuôi đến các vị trí có độ mặn ổn định (trên 32%0). Không di chuyển lồng/bè từ vùng nuôi có bệnh sang những vùng chưa xuất hiện bệnh.
– Thường xuyên theo dõi tình hình sức khoẻ tôm để kịp thời loại bỏ tôm bị bệnh.
– Khi phát hiện tôm có dấu hiệu bị bệnh phải thu gom, loại bỏ ra khỏi lồng. Thông báo cho cán bộ thú y xã (hoặc trạm kiểm dịch động vật thủy sản, trạm kiểm dịch động vật, cơ qan quản lý chất lượng và thú y thủy sản địa phương, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Chi cục Thú y) để được hướng dẫn xử lý tôm bị bệnh. Tôm bệnh phải được xử lý nhiệt (luộc chín ở nhiệt độ sôi ít nhất 10 phút) hoặc bằng hoá chất thích hợp đảm bảo không còn tác nhân gây bệnh.
– Không sử dụng tôm bệnh làm thức ăn cho tôm hoặc xả thải vào môi trường nước và vận chuyển buôn bán.
2. Đối với các tỉnh đã xảy ra bệnh:
– Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện đúng qui hoạch nuôi tôm hùm nói riêng và nuôi trồng thủy sản nói chung.
– Khoanh vùng bị bệnh “tôm sữa”, lập chốt kiểm tra ở trục giao thông ra vào vùng bị bệnh để ngăn chặn việc vận chuyển và tiêu thụ tôm bị bệnh.
– Kiểm soát, ngăn chặn việc di chuyển lồng/bè từ vùng nuôi có bệnh sang những vùng chưa xuất hiện bệnh.
– Theo dõi, giám sát việc tiêu huỷ tôm bệnh vở các hộ nuôi.
– Kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm, cố tình vận chuyển tôm hùm bị bệnh, không qua kiểm dịch khi xuất, nhập tỉnh.
– Tổ chức tăng cường thời lượng tuyên truyền phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương cho người nuôi tôm hùm biết tình hình bệnh tôm hùm, phương pháp phát hiện, các biện pháp phòng bệnh và cách ly.
– Chỉ đạo các tổ chúc, đoàn thể, Hội tham gia thực hiện các mô hình quản lý cộng đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm trong nhân dân, nhất là các vùng nuôi tôm Hùm.
3. Đối với các tỉnh chưa xảy ra bệnh:
– Thiết lập các trạm, chốt tại các đầu mối giao thông để kiểm soát việc vận chuyển tôm Hùm vào tỉnh. Tiêu huỷ và xử phạt các trường hợp vận chuyển tôm hùm bị bệnh trái phép.
– Giao trách nhiệm giám sát, phát hiện và báo bệnh cho chính quyền cấp xã. đồng thời huy động các tổ chức đoàn thể và các ngành chức năng liên quan phối hợp với ngành nông nghiệp, thuỷ sản để theo dõi diễn biến bệnh tại địa phương với từng tư hộ ương giống đến hộ nuôi tôm Hùm thương phẩm.
– Cung cấp thông tin về các địa phương, vùng nuôi đang có bệnh. Tổ chức tuyên truyền phổ biến cho người nuôi tôm Hùm phương pháp phát hiện và các biện pháp phòng bệnh cho tôm Hùm.
– Khi phát hiện tôm Hùm nuôi có dấu hiệu mắc bệnh phải tổ chức khoanh vùng và thực hiện theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng ở địa phương.
– Xây dựng và tổ chức thực hiện các mô hình đồng quản lý trong nuôi tôm Hùm.
– Phối hợp với các Viện, Trường thường xuyên cung cấp thông tin về khoa học, kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản phục vụ công tác phòng chống bệnh cho tôm Hùm.
Tags: nuoi tom hum, ky thuat nuoi tom hum, ki thuat nuoi tom hum, nuoi tom trong be, long nuoi tom, tom hum giong