Ngay từ đầu năm, người nuôi tôm đã gặp phải nhiều khó khăn do thời tiết gây ra. Trong tháng tư và tháng năm, nền nhiệt độ tăng cao trong ngày, cộng thêm mưa dông thường xuyên xuất hiện trên diện rộng làm môi trường nuôi dễ bị biến động, gây ô nhiễm vùng nuôi khiến bệnh đốm trắng trên tôm có cơ hội bùng phát. Khi ao nuôi xuất hiện dịch bệnh này, người nuôi cần có phương án xử lý thích hợp để tiêu diệt mầm bệnh, tránh để dịch bệnh lây lan.
1/ Dấu hiệu bệnh
Bệnh đốm trắng do virus (WSSV) hoặc vi khuẩn (BWSS) gây ra. WSSV thường xuất hiện trên tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Tôm bị bệnh có biểu hiện hoạt động kém, ăn nhiều đột ngột sau đó bỏ ăn, bơi lờ đờ ở mặt nước hay dạt vào bờ. Quan sát dưới lớp vỏ Ki-tin ở đầu ngực hoặc vỏ toàn thân thấy xuất hiện những đốm trắng (đường kính 0,5-2 mm), đôi khi tôm cũng có dấu hiệu đỏ thân. Giai đoạn đầu có một vài đốm trắng nhỏ. Ở giai đoạn này, trong dạ dày tôm có nhiều thức ăn và vỏ giáp không dễ bóc. Vào giai đoạn giữa và cuối, những đốm trắng lan rộng và liên kết với nhau thành từng đám. Khi bệnh đã nặng, các đốm trắng chiếm toàn bộ vỏ giáp. Lúc này ruột tôm không có thức ăn và vỏ giáp cũng được bóc ra dễ dàng. Khi đó, tôm chết rất nhanh, tỷ lệ chết có thể lên đến 100% trong vòng 3-5 ngày.
Giai đoạn đầu khi tôm mới nhiễm BWSS, tôm vẫn ăn mồi, lột xác và chưa thấy các đốm trắng trên tôm. Tuy nhiên, quá trình lột xác bị chậm lại, tôm không chết hàng loạt mà sẽ chết rải rác, hầu hết tôm bị đóng rong, mang bị bẩn. Lúc này quan sát tôm mới thấy các đốm trắng mờ đục hình tròn nhỏ trên vỏ khắp cơ thể.
2/ Tác nhân gây bệnh
Theo các nhà khoa học, tác nhân gây ra bệnh đốm trắng trên tôm là do nhiễm virus thân đỏ, đốm trắng có tên khoa học là Systemic ectodermal and mesodermal baculovirus (SEMBV) hoặc White spot syndrome virus (WSSV) gây nên. Chúng lây lan rất nhanh trong điều kiện vùng nuôi bị ô nhiễm nặng hoặc có thể mang mầm bệnh từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thời gian gây bệnh thường từ tháng nuôi thứ hai trở đi, khi mà lượng chất thải trong ao nuôi tôm bắt đầu xuất hiện nhiều, môi trường nước ao bị ô nhiễm, gây stress cho tôm; mầm bệnh có thể đã ủ trong tôm hoặc xâm nhập từ bên ngoài vào qua nguồn nước hoặc các loại ký chủ trung gian (cua, còng, cáy, chim …). Khi gặp thời tiết thay đổi sẽ tạo điều kiện cho các loại virus, vi khuẩn bùng phát gây ra dịch bệnh cho tôm. Trong vài năm trở lại đây, diện tích và mật độ nuôi tôm không ngừng gia tăng, trong khi đó hệ thống cấp thoát nước ở các vùng nuôi chưa đảm bảo, nước thải được thải trực tiếp ra bên ngoài khu vực nước cấp vào. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự ô nhiễm nguồn nước nuôi và lây lan dịch bệnh.
3/ Cách phòng và điều trị bệnh
a/ Đối với ao chưa bị bệnh
Người nuôi cần thường xuyên nắm bắt các thông tin về diễn biến dịch bệnh tại địa phương để có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Khi vùng nuôi chưa có biểu hiện dịch bệnh, các hộ nuôi cần tuân thủ những khuyến cáo sau:
Ao trước khi nuôi phải được tẩy dọn thật kỹ, vét sạch chất thải dưới đáy, loại bỏ tất cả các loại giáp xác hoang dã có trong ao. Phơi đáy ao 5-7 ngày.
Không nên đến nơi đang bùng phát dịch, hạn chế người qua lại các ao tôm, trường hợp phải vào ao thì cần thay quần áo và lội qua bể nước khử trùng (Chlorine, formol 5%).
Sử dụng vôi bột (CaO) rải xung quanh bờ ao, đắp chặt cống cấp và thoát nước. Quây lưới quanh bờ ao để ngăn chặn xâm nhập của cua, còng, cá … vào ao, căng dây và lắp hình nộm để ngăn chim vào ao.
Hạn chế thay nước ao, kiểm tra các yếu tố môi trường ao nuôi để điều chỉnh kịp thời như tăng cường quạt khí, xiphông đáy ao, ổn định pH, độ kiềm.
Đồng thời, tăng cường bổ sung Vitamin C, D, E, men vi sinh, khoáng chất, thuốc bổ gan, vi lượng vào thức ăn nhằm tăng sức đề kháng cho tôm. Cho tôm ăn theo phương châm: “Lượng ít, lần nhiều” để tránh ô nhiễm đáy ao.
Nếu nước ao có mầu trà đậm, kiểm tra thấy lượng Vibrio trong nước tăng vượt ngưỡng thì nên khử trùng nước ao bằng Chlorine, BKC, Vicato, formalin … Sau đó, phải bón ngay chế phẩm men vi sinh để ổn định môi trường ao nuôi và tạo vi khuẩn có lợi, hạn chế vi khuẩn gây hại cho tôm. Bên cạnh đó, phải thường xuyên kiểm tra sức ăn của tôm trong nhá, vó để điều chỉnh thức ăn phù hợp.
Hạn chế sử dụng các chất độc hại đánh xuống ao, tăng cường sử dụng các nhóm thuốc, hóa chất có tác dụng tốt và thân thiện với môi trường như: Các loại vôi, zeolite, khoáng chất… Kết hợp việc tăng cường quạt nước, nhất là khi thời tiết thay đổi để tránh phân tầng nhiệt độ và định kỳ thay nước, bón vôi cho ao nuôi theo đúng kỹ thuật.
b/ Đối với ao bị bệnh:
Đối với những ao nuôi phát hiện tôm có dấu hiệu bị bệnh cần báo ngay cho cán bộ thú y để lấy mẫu xét nghiệm, nhằm xác định chính xác bệnh và có biện pháp xử lý.
Ao nuôi bị bệnh có tôm chết ít, nên giảm 70-100% lượng thức ăn, xử lý nước ao bằng Vicato (5-10 ppm); sau đó, bón lại chế phẩm vi sinh để tiếp tục nuôi, đồng thời tăng cường quạt khí.
Những ao nuôi tôm chết nhiều (80-100%), thì nên vớt hết tôm chết đem tiêu hủy, sử dụng Chlorine (30 ppm) phun xuống toàn bộ ao; giữ nguyên nước ao sau 7-10 ngày mới được tháo nước ra ngoài, tránh để bệnh dịch lây lan ra xung quanh. Mực nước ao tôm xử lý Chlorine nên thấp hơn các ao xung quanh để ngăn ngừa nước mang mầm bệnh rò rỉ sang các ao khác. Sau khi tiêu hủy ao tôm bệnh cần tháo cạn nước, vét sạch bùn đáy và lật hết bạt lót đáy ao (nếu có) rải vôi phun thuốc khử trùng bạt, đáy ao, bờ ao.
Khi phát hiện tôm bị dịch bệnh người nuôi phải cách ly không sử dụng chung các dụng cụ cùng với các ao khác và không tiếp xúc trực tiếp từ ao bệnh sang ao khác, không thải nước thải mang mầm bệnh trực tiếp ra bên ngoài.
Phơi nắng đáy ao 5-7 ngày, sau đó có thể lấy nước vào ao và thả cá rô phi (3-4 com/m2) nuôi ít nhất 1,5-2 tháng rồi mới tháo nước cải tạo ao, lót bạt và nuôi tôm vụ mới.