Mặc dù đã có các bài báo và tài liệu viết về tầm quan trọng của việc duy trì chất lượng nước tối ưu trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả công nghệ khắc phục hậu quả liên quan nhưng vẫn còn quá nhiều báo cáo của ngành công nghiệp đề cập đến mất mùa, sản lượng thấp do môi trường nước không mong muốn.
Điều kiện sản xuất nuôi trồng thủy sản đã thay đổi trong 40 năm qua. Động vật đang phát triển nhanh, mật độ thả giống tăng và các bể đã thay đổi-nhờ có phương pháp quản lý, sinh khối thu hoạch lớn hơn trên một đơn vị thời gian và không gian. Những thay đổi này là cần thiết để duy trì một ngành kinh tế bền vững.
Để thích ứng với những thay đổi này, giá thức ăn chăn nuôi đã tăng lên – dẫn đến nhu cầu oxy cao hơn; sản xuất nhiều carbon dioxide, ammonia và nitrite hơn; cũng như tăng mức độ chất rắn hòa tan, lơ lửng và ổn định. Các yếu tố chất lượng nước nhanh chóng tiếp cận với nồng độ không thể chấp nhận được đối với các vật nuôi. Vì vậy, các nhà quản lý trang trại phải thích ứng với các phương pháp và thủ tục mới và cải tiến. Đây có thể là biện pháp phòng ngừa hoặc các phương pháp khắc phục hậu quả.
Thức ăn là yếu tố chi phí chính cho sản xuất nuôi trồng thủy sản.
Do việc áp dụng sản xuất thức ăn dinh dưỡng tốt nhất nên thức ăn ngày nay có khả năng mang lại FCR thời gian thực 1,1: 1 trong tôm và cá sản xuất thương mại. Điều này cần là mục tiêu trong việc quản lý trang trại và thực tiễn nuôi.
Thức ăn đưa vào hệ thống. Thức ăn thừa hoặc không tiêu hóa và sản phẩm phụ chuyển hóa là các nhân tố chính làm suy giảm nhanh chóng chất lượng nước. Do đó, thức ăn và kỹ thuật cho ăn cần đánh giá và cải tiến liên tục.
Hiệu quả sử dụng thức ăn
Hiệu quả được định nghĩa là đầu ra chia cho đầu vào. Trong nuôi trồng thủy sản, nó sẽ được xác định bằng đơn vị tiền lãi chia cho đơn vị đầu vào thức ăn, hoặc hiệu quả chuyển đổi thức ăn (FCE). Số liệu này được sử dụng chủ yếu trong các ấn phẩm khoa học, nhưng để báo cáo trong ngành công nghiệp, các số liệu thường được sử dụng là tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR), trong đó xác định số lượng thức ăn cần thiết để sản xuất ra một trọng lượng mong muốn.
Điều quan trọng là phải hiểu sự khác biệt giữa FCE và FCR. Một thức ăn với một FCR cao hơn dẫn đến ít thức ăn đi đến mô và nhiều thức ăn đi vào môi trường nước. Ngược lại, một thức ăn với một FCR thấp hơn sẽ có nhiều thức ăn đi vào mô và ít hơn vào cột nước.
FCRs phải được đánh giá trong thời gian thực, chẳng hạn như trên cơ sở hàng ngày hoặc hàng tuần, nhằm có được sự liên quan với nhau. Nếu con người chỉ sử dụng các giá trị FCR ở cuối mùa vụ thì con số này có tầm quan trọng về kinh tế, nhưng giá trị của nó về mặt hiệu quả thức ăn đo được sẽ bị giảm do tác động của tỷ lệ tử vong, nếu trọng lượng của động vật chết không được thêm vào trọng lượng của mùa thu hoạch.
Do việc áp dụng sản xuất thức ăn dinh dưỡng tốt nhất nên thức ăn ngày nay có khả năng mang lại FCR thời gian thực 1,1: 1 trong tôm và cá sản xuất thương mại. Điều này cần là mục tiêu trong việc quản lý trang trại và thực tiễn nuôi.
Cũ là tốt
Cách đây ba mươi bảy năm, Tiến sĩ George Klontz và các cộng sự đã công bố một báo cáo nghiên cứu có tựa đề “Kỹ thuật nuôi trồng thủy sản: Việc sử dụng nước và chất lượng thải” Mục tiêu của báo cáo này là phát triển và thử nghiệm các phương pháp dự đoán thế hệ sản phẩm chất thải từ các cơ sở nuôi trồng thủy sản. Từ những nghiên cứu này, họ đã có thể phát triển một phương pháp để ước tính số lượng của các chất rắn được sản xuất từ một lượng thức ăn đã biết, thể hiện trong Bảng 1.
Ziegler, Bảng 1
Hệ số chuyển đổi thức ăn | Hiệu quả thức ăn (%) | Chất rắn (kg) |
1.1 | 90.9 | 8.7 |
1.2 | 83.3 | 15.9 |
1.3 | 76.9 | 22.0 |
1.4 | 71.4 | 27.2 |
1.5 | 66.7 | 31.4 |
1.6 | 62.5 | 35.6 |
1.7 | 58.8 | 39.1 |
1.8 | 55.6 | 42.2 |
1.9 | 52.6 | 45.0 |
2.0 | 50.0 | 47.5 |
2.1 | 47.6 | 49.8 |
2.2 | 45.5 | 51.8 |
2.3 | 43.5 | 53.7 |
2.4 | 41.7 | 55.4 |
2.5 | 40.0 | 57.0 |
Hiển thị từ mục 1 đến mục 15 trong 15 mục
Chất rắn ước tính được tạo từ 100 kg thức ăn. Từ GW Koontz, IR Brock và JR McNair (1978).
Bảng này minh họa một cách chi tiết rằng khi FCR tăng thì lượng chất rắn đi vào cột nước cũng tăng đáng kể. Sự gia tăng 0,2 đơn vị FCR làm tăng lượng chất rắn khoảng 8,5 kg / 100 kg thức ăn cho ăn. Sự gia tăng FCR 1,2-1,6 làm tăng lượng chất rắn trong nước 19,7 kg / 100 kg thức ăn.
Số lượng chất thải dự đoán được báo cáo như chất thải rắn và không xem xét chất thải hòa tan hòa tan từ các chất thải rắn. Tất cả các chất thải phụ này phải được xử lý theo một cách nào đó chứa chi phí để duy trì chất lượng nước. Nếu chất thải thu thập ở đáy ao hoặc bể chứa thì nó có thể sản sinh hydro sunfua, chất này rất độc hại đến các loài thủy sản và có khả năng ảnh hưởng xấu đến vụ thu hoạch.
Mặc dù Klontz tiến hành thử nghiệm với cá hồi nhưng có sự thừa nhận là khi tỷ lệ FCR tăng thì sự tăng tương đối lượng chất rắn được sản xuất sẽ tương tự như đối với các loài thủy sản giống nhau nhất, bao gồm cả tôm.
Quản lý FCR
Việc giảm tỷ lệ FCR mà không ảnh hưởng đến năng suất vật nuôi, tốc độ tăng trưởng và sự sống sót phải là một mục tiêu quản lý tiếp theo. Một vài công cụ và kỹ thuật quan trọng có thể được áp dụng để thực hiện mục tiêu này.
• Giảm hoặc loại bỏ việc cho ăn quá mức có lẽ là thời cơ quan trọng nhất đối với việc giảm tỷ lệ FCR trong hầu hết các hệ thống sản xuất nuôi trồng thủy sản. Điều này liên quan đến việc lựa chọn các thức ăn ngon miệng, nhiều dinh dưỡng; chọn kích thước đúng; và sau khi xem xét môi trường, sinh lý và hành vi của các loài thì cho các động vật ăn theo cách chúng thích. Thông thường, thường xuyên hơn là tốt hơn – và chắc chắn rằng động vật có thể dễ dàng và nhanh chóng tiếp cận thức ăn khi được mang đến.
• Ăn thức ăn dinh dưỡng được chế biến theo công thức để tránh quá thừa dinh dưỡng và thiếu dinh dưỡng. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng cũng không được tồn tại.
• Các thức ăn phải dễ tiêu hóa và nên sử dụng các thành phần dễ tiêu hóa. Các tài liệu khoa học báo cáo rằng tỷ lệ tiêu hóa chất khô và protein có thể làm thay đổi 20 phần trăm hoặc nhiều hơn đối với các nguồn khác nhau trong cùng 1 thành phần. Chất không tiêu hóa được đi qua động vật nếu không có lợi ích gì sẽ dẫn đến FCRs tăng lên và đưa lượng chất rắn vào môi trường nước.
• Duy trì sinh lý và các đường tiêu hóa tốt nhất cho động vật bởi vì đó là nơi các chất dinh dưỡng từ thức ăn di chuyển vào hệ thống bạch huyết hoặc tuần hoàn thông qua các quá trình tiêu hóa và hấp thụ. Nếu niêm mạc của đường tiêu hóa trở nên bị kích thích và rối loạn chức năng do chất độc hoặc nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc ký sinh trùng thì quá trình tiêu hóa sẽ giảm. Nếu tỷ lệ tiêu hóa thức ăn trở nên suy yếu sẽ dẫn đến thải phân nhiều hơn.
Mặc dù chúng ta biết rằng việc cho ăn không đầy đủ thường làm giảm tỷ lệ FCR nhưng việc làm này chắc chắn không được khuyến khích vì nhiều lý do. Động vật đói sẽ tiêu thụ các mảnh vụn trên đáy ao mà đó có thể là một nguồn quan trọng gây bệnh. Động vật đói cũng sẽ tích cực tiêu thụ động vật nhỏ, yếu hay đã chết, điều này khiến chúng có thể bị nhiễm sinh vật gây bệnh. Nếu cho ăn không đầy đủ không được kiểm soát cẩn thận thì nó sẽ dẫn đến, động vật ít đồng đều, nhỏ và sinh khối thấp hơn lúc thu hoạch. Các thiệt hại kinh tế có thể lớn hơn giá trị của thức ăn dự trữ.
Triển vọng
Hiểu biết rõ ràng về vai trò thức ăn và cho ăn cũng như chất lượng nước là kiến thức quan trọng đối với các nhà sản xuất thủy sản. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn là một thước đo hữu ích để đánh giá liệu kỹ thuật sản xuất có hiệu quả hay không.
FCR thấp là tốt hơn, vì nó thường chỉ ra mức độ sử dụng thức ăn cao hơn và mức độ chất rắn đi vào cột nước thấp hơn.Nó cũng có thể chỉ ra rằng ít thức ăn bị lãng phí.
Việc ngăn chặn các vấn đề chất lượng nước thông qua thức ăn thích hợp và thức ăn phải được ưu tiên hàng đầu, khi chi phí khắc phục hậu quả có thể là khá quan trọng. Trong mọi trường hợp, các tiêu chuẩn chất lượng nước cho hiệu suất tối ưu của thủy sản phải được duy trì. Thiên nhiên không tạo nên mối đe dọa ẩn chứa.
Nguồn: Advocate, 05/11/2015
Biên dịch: NGỌC THƠ
Biên soạn: 2LUA.VN