Tùy thuộc vào những loại cá khác nhau mà sử dụng loại KDT tương ứng. Có loài sử dụng HCG cho hiệu quả cao hơn so với dùng não thùy hay LRHa, Proland B, nhưng có loài chỉ chịu tác động khi dùng LRHa. Việc chích thuốc cũng khác nhau ở từng loại cá, có loài chỉ chích 1 liều duy nhất gọi là liều quyết định. Tùy vào loài cá, tùy vào cấu trúc buồng trứng, túi tinh….mà có loài sau khi chích KDT thì tự sinh sản, có loài phải vuốt trứng, vuốt tinh, có loài thì phải mổ con đực lấy tinh hoàn để tiến hành thụ tinh nhân tạo.
Vị trí chích cũng rất khác nhau và có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống cá bố mẹ sau khi chích, đến thời gian hiệu ứng thuốc, đến cường độ tác động. Phương pháp chích ngay tại gốc vây ngực cho thời gian hiệu ứng nhanh hơn, cường độ tác động mạnh hơn, nhưng cũng dễ gây chết cá bố mẹ nếu kim đâm trúng tim. Phương pháp chích tại gốc vây lưng, sử dụng cho loại cá có thể trạng lớn như cá tra, vồ, basa, mú….Phương pháp này thuốc tác động chậm, thời gian hiệu ứng thuốc dài, nhưng an toàn vì ít gây chết cho cá bố mẹ sau khi chích.
Tác động ở cường độ khác nhau của từng loại thuốc chịu nhiều ảnh hưởng liên quan từ nguồn gốc cá, chất lượng nuôi vỗ, chế độ chăm sóc, yếu tố mùa vụ, tuổi, trọng lượng thân, kỹ thuật pha chế thuốc, kỹ thuật chích và các yếu tố môi trường liên quan. Như vậy, trong sản xuất giống, khi sử dụng kích dục tố cần quan tâm đến những vấn đề nào mang lại kết quả cao? Trước tiên cần xác định được tuổi, trọng lượng cá, chọn cá đạt yêu cầu về ngoại hình, chọn môi trường nuôi vỗ tối ưu, phù hợp với đặc tính sinh học từng loài cá về thức ăn, môi trường sống, thay nước chăm sóc.
Thường xuyên sử dụng các biện pháp nhồi nước (thay nước ngày 2 lần), tăng cường chu kỳ quang bằng cách dùng ánh sáng đèn cao áp, tạo dòng chảy xoáy áp lực hoặc làm mưa nhân tạo cùng với việc đưa thêm vào thức ăn một số thành phần như giá sống, mầm lúa…Tất cả những động tác này với mục đích thúc đẩy quá trình chuyển pha trứng nhanh và đồng loạt hơn. Trước khi chích KDT cần dùng que thăm trứng , lấy trứng ra đánh giá sơ bộ mức chuyển hóa của pha trứng thông qua màu sắc, độ căng tròn, độ rời và cực của nhân…
.Từ đó tuyển lựa cá bố mẹ (đặc biệt là cá mẹ) có tổ chức trứng ở pha IV (màu vàng sẫm, căng tròn đều, không vón cục, nhân phân cực). Cần chọn đúng loại thuốc thích ứng với từng loại cá, thích ứng cho từng liều cụ thể (mấy liều sơ bộ, liều quyết định). Lựa chọn thời điểm chích cá hợp lý, tránh những tác nhân do môi trường tác động như nhiệt độ (nhiệt dộ quá thấp hoặc quá cao). Cần lưu ý một số trường hợp (phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố mùa vụ và chất lượng cá nuôi vỗ) mà việc dùng một loại thuốc thường kém hiệu quả hơn so với việc phối hợp hai hay nhiều loại thuốc KDT ( có thể dùng HCG với não thùy hoặc não thùy với LH-RHa..).
Ngoài ra, để tăng cường hoạt tính của từng loại thuốc sử dụng nên kết hợp thêm DOM (Doperidom). Tùy thuộc vào mỗi loài cá mà bố trí chích các liều sơ bộ các nhau trong khoảng thời gian hợp lý, thường cách nhau từ 6 – 8h. Trước khi chích liều quyết định, cần theo dõi thường xuyên diễn biến về ngoại hình của cá, kết hợp thăm trứng, đánh giá độ phân cực của nhân, độ căng tròn của màng trứng, độ rời. Thường bụng cá sẽ mềm dẫn đến thời điểm chích liều quyết định (chích sau liều sơ bộ cuối cùng từ 6 – 8h), gai sinh dục chuyển từ màu hồng sang đỏ thẫm, cá bơi lội chậm chạp lười vận động hơn.
Sau khi chích liều quyết định cần thăm trứng thường xuyên để can thiệp kịp thời như bố trí bể đẻ, vuốt trứng, vuốt tinh…Sản xuất giống có hỗ trợ KDT luôn đặt người quản lý trại giống trong tình huống chủ động trong sản xuất, điều phối hài hòa, cho kết quả cao ổn định.
Tags: san xuat ca giong, ky thuat nuoi ca giong, nuoi ca giong, nuoi trong thuy san