1. Chuẩn bị ao nuôi
Cải tạo đáy ao: Trước mỗi vụ nuôi, người dân tập trung cải tạo ao vào thời điểm từ tháng 9 – 10 dương lịch, thời gian cải tạo 15 – 30 ngày.
Sau đó, tiến hành bón vôi CaCO3 từ 100 – 150 kg/ha, đảm bảo ao nuôi duy trì mực nước trên trảng 0,4 – 0,6 m, mương bao có độ sâu 1,2 – 1,5 m, các yếu tố môi trường nằm trong ngưỡng thích hợp (pH, nhiệt độ, độ mặn…) tạo điều kiện cho sò huyết, tôm, cá phát triển ổn định.
Lưu ý: Đối với những ao nuôi còn sò huyết trên mặt trảng của vụ trước thì chỉ cải tạo, sên vét loại bỏ sình, chất bùn quanh mương bao.
Lấy và xử lý nước: Sau khi cải tạo, sên vét ao nuôi, mương bao, tiến hành lấy nước vào ao nuôi thông qua túi lọc để hạn chế trứng các sinh vật gây hại sò huyết xâm nhập vào ao nuôi.
Nên theo dõi chất lượng nước ngoài kênh rạch trước khi cấp để đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho sò huyết, tôm, cá phát triển.
Sau 2 – 3 ngày tiến hành diệt tạp, diệt khuẩn và 3 – 5 ngày tiếp theo tiến hành gây màu cho ao nuôi tạo nguồn thức ăn tự nhiên (tảo) giai đoạn đầu cho sò khi mới thả giống.
Một số hóa chất thông thường có thể sử dụng để diệt tạp như dây thuốc cá (10 – 15 kg/1.000 m3), Saponin (10 – 15 kg/1.000 m3); gây màu dùng phân vô cơ DAP, Ure (3 – 5 kg/1.000 m3) nhằm tạo môi trường tốt cho thủy sản nuôi phát triển.
Kiểm tra môi trường ao nuôi (pH, độ mặn, độ, độ kiềm, độ trong…) trước khi thả nhằm đối chiếu các thông số môi trường trong ao nuôi với giới hạn cho phép xem có nằm trong ngưỡng thích hợp hay không để kịp thời điều chỉnh.
2. Chọn và thả giống
Sau khi cải tạo hoàn tất, tiến hành thả tôm giống với các đợt trong năm như sau (đợt 1: tháng 11, đợt 2: tháng 2, đợt 3: tháng 6, đợt 4: tháng 8).
Đến tháng 4 – 7 dương lịch, tiến hành thả sò huyết giống vào ao, nuôi kết hợp với tôm, cá.
Khuyến cáo bà con thả sò huyết giống vào thời điểm này nhằm mục đích chủ động nguồn giống ngoài tự nhiên.
Cùng đó, nuôi kết hợp 3 đối tượng (tôm sú, sò huyết, cá) để mang lại hiệu quả tối ưu nhất, vừa phù hợp với điều kiện sản xuất của hộ dân, điều kiện tự nhiên vừa tăng hiệu quả kinh tế: sò huyết nuôi với mật độ 80 – 100 con/m2, cỡ giống sò 500 – 1.000 con/kg (1 – 2 đợt/năm); tôm sú mật độ 1 – 1,5 con/m2, cỡ giống từ PL12 – 15 (có thể thả 3 – 4 đợt/vụ/năm, mỗi đợt cách nhau 1,5 – 2 tháng); cá rô phi mật độ 0,6 – 1 con/m2 (1 đợt/năm).
Thời điểm thả giống có thể vào buổi sáng hoặc buổi chiều, trời mát, không mưa bão.
Thả tôm giống (đợt 4) sau khi thả sò huyết 1 tháng.
Nếu có điều kiện nên xét nghiệm tôm giống trước khi thả nuôi nhằm đảm bảo chất lượng.