Site icon Kiến Thức Nhà Nông

Nghiên cứu lại kỹ thuật để nuôi hiệu quả cá kèo – Phần 2

Do đó, việc nắm lại quy trình ương, nuôi cá kèo là vô cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân.

Nuôi cá kèo thương phẩm

Nuôi cá kèo thương phẩm có thể sử dụng ao nuôi tôm sú để nuôi luân canh cá bống kèo, ao nuôi có diện tích từ 1.000-2.000m2 là thích hợp.

Đầu tiên cũng cần tát cạn ao, dùng rễ cây thuốc cá để diệt tạp với liều lượng 1kg rễ tươi/100m3 nước ao.

Cày hoặc xới đáy ao một lớp đất mỏng (5-7cm) để đáy ao thoáng khí.

Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ (ủ mục, hoai) liều lượng 20-30kg/m2 ao.

Rải vôi bột xuống đáy ao 8-12 kg/m2, xới đảo bùn đáy và phơi đát ao 2-3 ngày.

Sau đó lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc, khi mức nước dạt khoảng 0,3-0,4m thì có thể thả cá giống sau đó nâng dần mực nước ao.

Cá kèo giống có nuôi có thể đạt cỡ 3-5 cm hoặc 4-6cm.

Cá giống ương nuôi trong ao thì kích cỡ đồng đều hơn, khỏe hơn.

Mật độ 30-60 con/m2, trung bình 50 con/m2.

Một số hộ thả với mật độ ban đầu rất cao (hơn 100 con/m2), sau hai tháng nuôi thì san thưa với mật độ 50 con/m2.

Nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt cao 60-70%.

Cá bống kèo có tính ăn tạp, thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ và thức ăn do con người cung cấp.

Do đó, định kỳ mỗi tuần bón thêm phân hữu cơ 10-15kg/100m2 hoặc 100-150 gam phân vô cơ (DAP,NPK)/100m2.

Có thể cho cá ăn thức ăn chế biến gồm cám gạo (60-70%) và bột cá (30-40%) được trộn đều và nấu chín, trộn với premix khoáng và vitamin A,D,E,C.

Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3-4 và 18% cho hai tháng cuối.

Khẩu phần thức ăn 4-6% trọng lượng đàn cá/ngày, cho cá ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng sớm và chiều mát.

Nếu sử dụng thức ăn công nghiệp, kích cỡ viên thức ăn phải có kích cỡ phù hợp với độ lớn và kích thướt miệng của cá để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất.

Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 18-25%, giảm dần theo tháng tuổi của cá.

Khẩu phần thức ăn công nghiệp 1-1,5% trọng lượng thân/ngày.

Chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi.

Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mức nước ao cần đạt 0,4-0,5m, sau đó tiếp tục dâng từ từ mỗi tuần cao hơn 0,2m cho đến khi mức nước đạt tối đa.

Hàng ngày kiểm tra các yếu tố thủy, lý, hóa của ao như nhiệt độ, pH, độ trong, pH, độ mặn.

Kiểm tra bờ và cống ao, tránh bờ bị rò rỉ, lưới chắn bị thủng.

Vào mùa mưa chú ý độ mặn của nước cấp cho ao không để quá thấp dưới 3‰.

Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao.

Màu nước ao xanh quá đậm hoặc chuyển qua mầu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay nước mới.

Trong nuôi cá bống kèo có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn hại cá bống kèo như chim cồng cọc, rắn biển, cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi,… Để phòng trừ địch hại phải tìm diệt hết cá tạp hoặc đặt các bù nhìn hoặc treo dâu ngang dọc gắn các lon sửa để xua đuổi chim.

Cá kèo thường gặp một số bệnh như bệnh lở loét trên thân do ký sinh trùng, đốm trắng trên thân và đầu kèm theo xuất huyết các gốc vây do vi khuẩn gây ra.

Ngoài ra, cá có thể bị nhiễm bệnh do môi trường nước ô nhiễm hoặc nhiệt độ biến động quá lớn.

Để phòng bệnh phải chọn cá giống khỏe mạnh, không thả nuôi mật độ quá dày, giữ môi trường ao nuôi sạch, không để nước ao bị ô nhiễm.

Đảm bảo môi trường nước sạch và chất lượng, bổ sung thêm các vitamin quan trọng nhất là Vitamin C (50-60 mg/kg thức ăn).

Khi phát hiện cá bị bệnh phải xác định đúng loài ký sinh hay vi khuẩn gây bệnh để sử dụng đúng thuốc để chửa trị.

Tuyệt đối không sử dụng các loại hóa chất và kháng sinh đã bị cấm.

Sau 5-6 tháng nuôi cá bống kèo có thể đạt trọng lượng trung bình 20-30gam/con (30-50 con/kg).

Khi đó có thể dùng lưới kéo hoặc lợi dụng tính bơi ngược nước của cá bống kèo và dùng một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược dòng nước.

Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng giống tự nhiên dao động trung bình từ 15-50%, tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác tới 30%.

Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt khoảng 1-3 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng/ha.