Sò huyết là đối tượng rất dễ nuôi, không cần cho ăn, khâu chăm sóc cũng đơn giản. Đặc biệt nuôi sò trong ao lắng nước còn có tác dụng duy trì chất lượng nước rất tốt và sò huyết lại lớn rất nhanh.
I.Điều kiện bãi nuôi
– Chọn vị trí ít sóng gió và gần cửa sông để xây dựng bãi nuôi sò huyết.
– Chất đất của bãi nuôi tốt nhất là bùn mềm pha lẫn cát mịn, mặt bùn bằng phẳng, có màu vàng nâu, độ dày lớp bùn khoảng 3-6 cm, chất đất cát pha bùn với tỷ lệ bùn chiếm khoảng 70-80%. Yêu cầu dày hay mỏng tùy vào kích cỡ của sò giống.
– Bãi nuôi tốt nhất là tuyến triều thấp với thời gian phơi bãi ngắn từ 5-6 giờ/ngày.
– Muốn sò huyết sinh trưởng tốt, nước phải chứa nhiều thức ăn (mùn bã hữu cơ, thực vật phù du và vi sinh vật). Bãi nuôi nên chọn gần cửa sông để nước sông bổ sung dinh dưỡng cho bãi, nhưng cần chú ý đến sự biến thiên nồng độ muối để tránh ảnh hưởng đến sò huyết.
– Yếu tố môi trường:
+ Nhiệt độ thích hợp để nuôi sò huyết là 15-300C.
+ Nhiệt độ lớn hơn 400C hoặc dưới -20C thì sò huyết bị chết.
+ Độ mặn của nước phù hợp là 10-29‰. Độ mặn 33‰ sẽ ảnh hưởng đến khả năng sống của sò.
II.Xây dựng bãi nuôi
– Cần chọn nơi có bãi bằng phẳng, không bị ứ nước, nếu bãi quá rộng phải chia bãi ra thành từng ô nhỏ để dễ chăm sóc. Xung quanh bãi nên chắn đăng hay lưới để ngăn chặn địch hại và không cho sò huyết bò ra khỏi bãi.
– Trước khi nuôi cần làm vệ sinh mặt bãi, nhặt sạch tạp vật, nếu nền đáy cứng thì có thể xới cho xốp.
Khi nuôi sò trong các đầm phải xây dựng một số hạng mục công trình như sau:
– Trường hợp nuôi đơn giản:
+ Tiến hành đóng cột mốc ở 4 góc làm ranh giới quản lý. Dùng đăng tre hoặc lưới căng xung quanh bãi thành rào chắn để không cho sinh vật có hại xâm nhập vão bãi nuôi. Sau đó, dùng cây gỗ chắc chịu được nước, đường kính khoảng 10-15cm, dài 1,5-2m làm thành cọc, đóng thành hàng xung quanh bãi, mỗi cọc cách nhau 1m và đóng sâu 0,5m.
+ Dùng đăng lưới căng theo hàng dọc, chân đăng hoặc lưới cắm sâu dưới bùn độ 0,2m và cột chặt vào các cọc. Sửa ngang lại bãi cho phẳng, không để ứ đọng nước, nhặt hết các tạp vật hại sò. Nếu bãi cứng phải cày bừa cho tơi xốp.
+ Cách nuôi này tuy đầu tư ít song lại không bền vững, hàng năm phải thay cọc, lưới hoặc đăng gây nhiều tốn kém.
-Trường hợp nuôi kiên cố:
+ Phải thiết kế bãi nuôi có hình chữ nhật và xây dựng kèm theo các công trình. Bờ ao xung quanh bãi phải đắp chắc chắn, mặt bờ rộng khoảng 2-2,5m, đáy bờ 3-3,5m, chiều cao của bờ 1,2-1,5m. Xây dựng thêm mương bao xung quanh phía trong bờ ao. Diện tích mương bằng 15-20% diện tích bãi nuôi. Thủy triều trước khi vào bãi qua mương được lọc lại bùn, cát và các tạp vật khác làm cho nước vào bãi trong sạch. Mương ngoài tác dụng là rào chắn không cho sinh vật có hại xâm nhập vào bãi còn có nhiệm vụ điều chỉnh nhiệt độ trên bãi nuôi.
+ Phía trước bãi nuôi và đối diện với cửa cống cấp nước xây một bờ ngăn cao khoảng 0,6m, bề mặt 0,6m, cách bãi nuôi chừng 1,5m và cách cửa cống 1,5m, mục đích làm phân tán dòng chảy, giảm lưu tốc chảy của nước từ cống cấp vào bãi để đảm bảo cho bãi nuôi không bị xói mòn.
III.Chọn giống
1.Nguồn giống
Sò huyết giống hiện nay chủ yếu là lấy từ giống tự nhiên, cho nên trước khi tiến hành lấy giống cần phải điều tra, dự báo diện tích bãi giống, trữ lượng giống để có thể chủ động trong sản xuất. Xác định diện tích qua điều tra vùng phân bố của sò giống và xác định trữ lượng giống bằng cách lấy mẫu sinh lượng, dựa trên diện tích bãi giống và sinh lượng để tính ra trữ lượng giống.
Thời điểm lấy giống nên tiến hành khi phát hiện giống khoảng 10-15 ngày (giống cỡ 25-30 ngàn con/kg).
Có hai cách lấy giống:
a) Lấy giống lúc bãi cạn
Khi triều xuống lộ mặt bãi, dùng cào để cào lớp bùn trên mặt, sau đó dùng sàng, rổ để đãi bùn loại bỏ rác, tạp vật và lấy sò giống. Mỗi lần lấy giống xong phải san lại mặt bãi cho bằng phẳng để thu giống sò đợt sau.
b) Lấy giống lúc bãi ngập nước
Cách này qui mô hơn, thường tiến hành vào những ngày yên sóng hoặc lúc triều bắt đầu xuống, nhưng nước vẫn còn ngập bãi. Dụng cụ lấy giống gồm thuyền máy có lưới cào hoặc dùng cào tay, cào lớp bùn trên mặt để thu giống.
2.Vận chuyển giống
– Sau khi lấy giống, có thể vận chuyển giống bằng phương pháp giữ ẩm. Trong quá trình vận chuyển con giống, tránh để sò huyết tiếp xúc với nước ngọt đặc biệt là nước mưa. Thời gian vận chuyển con giống không quá 6 giờ. Sò huyết giống được dựng trong cập đệm hoặc bao bố, để nơi thoáng mát, vận chuyển bằng xe hoặc tàu thuyền, thường xuyên tưới nước biển lên các bao đựng sò giống để sò huyết giống dễ hô hấp.
– Ở nhiệt độ thấp thì thời gian cho phép để vận chuyển lâu hơn và tỉ lệ sống cao hơn.