1. Sinh sản tự nhiên trong ao:
– Điều kiện ao: Phải chủ động cấp thoát nước, nền đáy ít bùn và có giá thể (lá cây, rơm, cỏ khô,…).
– Thời điểm cho cá sinh sản: Cá có tập tính sinh sản vào đầu mùa mưa và kết thúc sinh sản vào cuối mùa mưa.
Khi kiểm tra xác định cá thành thục chọn hai con nước cường trong tháng cho cá sinh sản.
Khi cho cá sinh sản, mở cống cho nước ra vô tự do, nước mới sẽ kích thích cá sinh sản.
Khi cho cá ngưng sinh sản thì đóng cống lại, sau đó tiếp tục nuôi vỗ bình thường.
– Tập tính sinh sản: Cá đẻ trứng dính vào giá thể được đặt trong các hố nhỏ ở đáy ao có đường kính khoảng 0,3-0,4m vuông, sâu 0,1m; vị trí tổ các sinh sản nằm gần bờ ao.
Sau khi sinh sản xong cá đực giữ tổ.
Mỗi ngày vào sáng sớm hay chiều mát, kiểm tra đáy ao, chú ý những nơi gần cống hoặc những nơi có ít bùn.
– Thu trứng: nhặt hết giá thể có trứng bám, cho vào xô hoặc thau có nước sạch, vận chuyển về khu ấp trứng có dòng chảy nhẹ đi qua, kết hợp thay nước với sục khí.
2. Sinh sản nhân tạo:
Chọn cá bố mẹ:
– Cá đực: chủ yếu chọn ngoại hình có mình thon, dài, gai sinh dục màu hồng.
– Cá cái: chọn cá có ngoại hình bụng to nhô ra hai bên hông, khi dùng tay sờ thấy mềm đều, gai sinh dục màu hồng.
Kích dục tố và liều sử dụng: Có thể sử dụng các loại kích dục tố sau:
– HCG: 4000-6000 IU/kg cá cái
-LH- RHa: 150-200 µg+ 1 viên dom/kg cá cái.
– Cá đực tiêm 1/2 liều cá cái.
Tiêm ở góc vi lưng hoặc góc vi ngực.
Tiêm 2 liều, liều sơ bộ cách liều quyết định 12-24 giờ.
Cá đực chỉ tiêm 1 liều.
Trong điều kiện nhiệt độ 28-300C, thời gian hiệu ứng 24 giờ.
Thụ tinh: Sau khi kiểm tra trứng rụng, tiến hành cho thụ tinh bằng hình thức sau bằng cách:
Vuốt trứng từ 5-10 con vào thau nhỏ, mổ bụng cá đực lấy tinh sào (5 con cái/ 1 con đực) cho vào thau chứa trứng.
Đảo trộn 2-5 phút, cho nước cất vào vừa ngập trứng, tiếp tục đảo trộn cắt nghiền nhỏ trong cối, trộn đều với trứng bằng lông gà, sau đó mang đi ấp.
Bể ấp có diện tích 2-4m2, vệ sinh sạch trước khi sử dụng.
– Ấp trứng:
– Khử dính: cho trứng vào dung dịch tanin với nồng độ 1-1,5‰; đảo đều 2-3 giây, đổ bỏ dung dịch tanin, cho nước sạch vào rửa 2-3 lần, sau đó mang trứng đi ấp.
– Không khử dính: trứng sau khi thụ tinh cho bám vào khung lưới và cho vào bể ấp.
Mật độ ấp nếu dùng phễu, bình weis: 4.000-5.000 trứng/ lít; còn dùng khung lưới: 1.000-1,500/m2.
Trong thời gian ấp trứng ngăn ngừa sự phát triển của nấm, mỗi ngày tắm trứng 1 lần bằng vertmalachite với nồng độ 1-1,5ppm.
Trong điều kiện nhiệt độ 27-300C, trứng nở 4-5 ngày sau khi đẻ.
Sau khi cá nở 3-4 ngày chuyển cá đi ương.
– Ương cá từ bột lên giống
Cá thát lát có thể ương trong ao đất hoặc bể ximăng.
Trước khi đưa vào ương, phương tiện ương phải được cải tạo hoặc vệ sinh.
Do cá có tập tính ẩn nấp vào ban ngày, nên thả bèo, lục bình trên mặt nước hay gạch ngói trong bể ximăng cho cá trú ẩn.
Mật độ ương 200con/m2.
Thức ăn: 7 ngày đầu cho ăn động vật phù du (Moina), ngày thứ 8 về sau cho ăn trùn chỉ hoặc thức ăn hỗn hợp gồm cá (30%) + bột cá (70%).
Khẩu phần 100g/ vạn con/ngày và tăng dần theo nhu cầu bắt mồi của cá, thức ăn được nấu chín và đặt trong sàn.
Cho các ăn 2 lần/ngày (sáng 1/5, chiều 4/5), ban ngày thức ăn đặt gần nơi cá ẩn nấp.
Nuôi cá thịt
– Sau khi cải tạo từ 3-5 ngày cho nước mới vào ao tiến hành thả cá nuôi.
Kích thước cá nuôi từ 4-6cm.
Mật độ 6-10 con/m vuông, có thể thả ghép với các loài cá khác cùng cỡ nhưng không cùng tính ăn.
– Thức ăn: có thể cho cá ăn các loại thức ăn tươi sống như cá, tép vụn băm nhỏ hay cá – tép nhỏ còn sống thả vào ao cho cá ăn dần.
Hoặc cho cá ăn thức ăn chế biến gồm 30% bột cá và 70% cám, kết dính cho vào sàn ăn.
Chăm sóc: Hàng ngày theo dõi tình hình bắt mồi của cá để tăng hoặc giảm lượng thức ăn cho hợp lý, định kỳ cấp nước mới cho ao hoặc cho nước ra vô theo thủy triều.
Cá nuôi sau 1 năm trọng lượng đạt từ 80-150g/con.