II/ Kết quả thí nghiệm
2/ Ảnh hưởng của pH đến khả năng miễn dịch của L. vannamei
Thông thường, pH tối ưu của tôm thẻ chân trắng là 7.6 – 8.5 (Allan & Maguire, 1992). Khi tôm đã được tiếp xúc với pH thấp hơn 7.0, hoạt động bị hạn chế, khả năng lột xác và tăng trưởng bị ảnh hưởng. Nghiên cứu của Chen và Lin (1995) cho kết quả, ấu trùng tôm Penaeus chinensis giảm tiêu thụ oxy khi pH tăng (7.0 – 8.5).
Lin và ctv (2000) báo cáo rằng khi pH ngoài phạm vi xác định sẽ ảnh hưởng đến hô hấp ở động vật giáp xác. Cheng và Chen (2000) đã phát hiện ra rằng sự thay đổi pH từ 7.6 xuống 4.8 hoặc tăng lên 9.3 trong 7 ngày thì số huyết bào bị giảm đối với tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergii, và cho rằng khả năng kháng bệnh tốt nhất ở pH 7.5 – 7.7. Pan và Giang (2002) đã phát hiện ra rằng biến động pH từ 8.5 xuống 7.0 hoặc tăng lên 9.5 trong một thời gian ngắn (10 giờ) làm giảm các hoạt tính diệt khuẩn và hoạt tính kháng khuẩn của hai loài tôm nuôi, trong khi hoạt động phenoloxidase tăng đáng kể.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng khả năng miễn dịch tại mỗi mức pH thử nghiệm là ổn định, và khả năng miễn dịch này đối chứng (pH = 8,0) là cao nhất từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 12 khi pH thay đổi. Ngoại trừ pH = 8.5, khả năng miễn dịch giảm sau khi tăng hoặc giảm độ pH từ 8.5. Ảnh hưởng của pH đến khả năng miễn dịch chủ yếu tác động lên mang, đó là những cơ quan chính kiểm soát Cl-/ HC và cân bằng để duy trì độ pH trong cơ thể (Allan & Maguire 1992, Prqueux 1995). Khi đó sự tương tác này gây ra sự gia tăng mức độ tiêu thụ oxy, mất nhiều năng lượng hơn (Savant & Amte 1995) và dẫn đến một sự suy giảm về khả năng miễn dịch ở các mức pH khác nhau.
Kết luận
Theo khả năng thích ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng khi thay đổi pH, pH của môi trường nên được duy trì trong khoảng 8.0 – 8.5, và biến đổi pH không nên vượt quá 0.5.
III/ Hệ miễn dịch của tôm
Giáp xác có một hệ miễn dịch không đặc hiệu, bao gồm cả thực bào, quá trình đông máu và hình thành huyết bào và các yếu tố hoạt hóa huyết tương như hệ thống prophenoloxidase (proPO), chất dính, enzyme hoạt tính diệt khuẩn, peptide kháng khuẩn và chất ức chế proteinase (Soderhall & Cereniusl, 1992). Trong đó, hệ thống proPO đóng một vai trò chính trong việc nhận diện miễn dịch và phòng vệ đối với giáp xác, và các phản ứng miễn dịch với các yếu tố bên ngoài có thể được kích hoạt và gia tăng bởi việc truyền tải thông tin giữa các tế bào.
Soderhall và Unestam (1979) tìm thấy cơ chế của hệ thống proPO, kích hoạt bởi các tác nhân xâm nhập (vi khuẩn, nấm) và tự kích hoạt trong một điều kiện vật lý bình thường là hoàn toàn khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng những thay đổi trong yếu tố môi trường đã kích hoạt hệ thống proPO và gia tăng hoạt động phenoloxidase trong huyết tương (Lê Moullac và ctv, 1998, 2000; Pan & Giang, 2002; Li và ctv, 2002; Perazzolo và ctv, 2002).
Hệ thống proPO có cơ chế kích hoạt khác nhau, nên các phản ứng miễn dịch cũng khác nhau. Vì vậy, khả năng miễn dịch của giáp xác không nên được đánh giá qua các chỉ số của hoạt động phenoloxidase, nhưng nên tham khảo các cơ chế thúc đẩy sự thay đổi miễn dịch, và làm một ước lượng toàn diện về mức độ miễn dịch của cơ thể vật nuôi.
Theo: Phòng thí nghiệm nuôi trồng thủy sản – Bộ Giáo dục, Đại học Hải Dương Trung Quốc