Tất cả những yếu tố trên đều gây những trở ngại rất lớn đến kết quả sau cùng của mô hình. Đối với mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng, đối tượng nuôi mới ở khu vực ven biển hiện nay, ngoài những yếu tố đề cập trên, con giống được xem là hay cũng là nguyên nhân gây thất bại của một số mô hình nuôi. Hiện tại, giống tôm thẻ chân trắng còn rất nhiều vấn đề cần bàn. Trên thị trường vẫn tồn tại một lượng rất lớn nguồn giống nhập không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và qui trình kiểm dịch. Vẫn không ít người nuôi sử dụng nguồn giống tôm thẻ chân trắng trôi nổi, giá rẻ, chất lượng kém để thả nuôi.
Chất lượng, kích cỡ, độ đồng đều ở mỗi nơi bán đều có sự khác biệt. Đối với những trại sản xuất giống tôm thẻ trong nước thì việc khai thác, sử dụng tôm mẹ (tuổi, kích cỡ, điều kiện nuôi vỗ, kỹ thuật sản xuất giống, sử dụng thuốc, phương pháp cắt mắt, số lần tôm mẹ sinh sản…) không được kiểm tra, theo dõi thường xuyên, việc quản lý vận hành sản xuất còn quá lỏng lẻo. Thông thường các trại sản xuất giống luôn khai thác triệt để nguồn tôm mẹ có được, số lần đẻ không giới hạn, ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đàn tôm bột sau đó, hậu quả là người nuôi lãnh đủ. Việc áp dụng qui trình sản xuất giống thường không đồng bộ giữa các trại sản xuất, giữa các kỹ thuật viên trong trại, giữa mùa vụ sản xuất chính và phụ.
Điều kiện vùng nuôi, vị trí trại đảm bảo tính cách ly an toàn trong quá trình sản xuất, hệ thống bể, hệ thống xử lý nước, tiêu chuẩn nguồn nước trại…ít được quan tâm đúng mức, thường các trại tận dụng điều kiện có sẵn để sản xuất, nên chất lượng giống vì thể cũng ảnh hưởng. Nhằm tận dụng diện tích sản xuất, các trại giống thường ương mật độ dày, thức ăn sử dụng, tiêu chuẩn thức ăn hiện nay đang được thả nổi và rất bất cập. Những trại quan tâm đến thương hiệu của mình và trách nhiệm với khách hàng thường sử dụng những loại thức ăn công nghiệp cao cấp, xác định thành phần vật chất trong thức ăn, đã qua kiễm duyệt của cơ quan chức năng chuyên nghành. Vẫn tồn tại những trại sản xuất giống tôm thẻ chân trắng sử dụng bừa bãi thức ăn công nghiệp, thức ăn chế biến, cá tươi…
Điều quan trọng là, rất khó xác định nguồn gốc, chất lượng, thời hạn sử dụng các loại thức ăn này. Các trại sản xuất, thuần dưỡng, lưu giữ giống hiện sử dụng rất nhiều thuốc, hóa chất, chế phẩm. Có thể nói việc dùng thuốc, chế phẩm, hóa chất đã trở thành thói quen trên mức lạm dụng đối với các kỹ thuật viên vận hành trại. Chỉ cần một sự cố nhỏ, các kỹ thuật viên vận hành trại không ngần ngại dùng ngay những loại thuốc, hóa chất, chế phẩm đánh ngay xuống hồ chứa tôm giống. Mức độ, liều lượng sử dụng lần sau cao hơn lần trước, các trại viên thường kỳ vọng vào khả năng giới hạn của thuốc, hóa chất.
Sau mỗi lần sử dụng thuốc, bầy tôm con thường có biểu hiện chậm lớn, phát triển không đồng đều, dễ mẫn cảm với môi trường, thời tiết, khí hậu. Tôm nuôi chậm lột xác, vỏ mềm lâu, thời gian lột xác khéo dài. Công tác kiểm tra tôm giống trước khi xuất bán thực hiện không đồng bộ, sơ sài, chất lượng và kết quả kiểm tra đánh giá thiếu chính xác. Làm thế nào sản xuất bây tôm giống sạch bệnh, người nuôi làm gì để chọn lựa chính xác bầy tôm giống chất lượng cao?. Trước hết tôm giống chất lượng cao chỉ được sản xuất trong trại giống được đầu tư cơ sở hạ tầng, công nghệ, trang thiết bị vật tư hiện đại, đầy đủ, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật. Như trang bị hệ thống xử lý nước hiện đại, hệ thống máy ozone, đèn cực tím, điện cực âm, hệ thống lọc sinh học..vv.
Sản xuất theo một qui trình hiện đại, tuần hoàn khép kín, theo dõi xuyên suốt, liên tục từ khâu nhập tôm bố mẹ, thức ăn. Tôm bố mẹ được nuôi vỗ kỹ trước khi bước vào vụ sinh sản. Không cho tôm mẹ đẻ quá 3 lần, nhằm chủ động nâng chất lượng đàn tôm giống. Hạn chế tối đa việc dùng hóa chất, thuốc. Bầy tôm giống phải xác định nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Chất lượng bầy tôm giống đánh giá qua cảm quang có size cỡ từ 1-1.2cm, đồng đều; những biểu hiện cảm quan như râu, chủy, mắt, vỏ trong sáng, đầy đủ phụ bộ bơi, thức ăn đầy ruột, tổ chức cơ thịt đầy so với vỏ tôm, tình trạng hoạt động chủ động, không tập trung thụ động tại một vị trí trong bể ương. Tôm bột có xu hướng đi ngược dòng nước, khi dùng tay quay nhẹ nước trong thau.
Dùng phương pháp hạ độ mặn, đột ngột giảm 50% so với độ mặn trong bể ương, nếu số tôm chết không quá 5% là đạt yêu. Có thể dùng hóa chất để kiễm tra tôm giống, hóa chất thường dùng là Formaline (Formol), liều lượng 200ppm (ml/m3 nước), cho tôm vào thau nước đã pha thuốc, sau 2h, nếu số tôm cho vào chết không quá 5% là đạt yêu cầu. Ngoài ra, phương pháp PCR dựa trên phân tích chổi AND của tôm thẻ bột giúp phát hiện ra các bệnh do virus gây ra được xem là tiên tiến, chính xác nhất để phát hiện tôm bệnh, tôm mang mầm bệnh trong cơ thể.
Chủ động thuần dưỡng độ mặn thích ứng tương đương, phù hợp với môi trường nơi dự kiến thả nuôi tôm. Thời gian thuần dưỡng trước khi thả tôm giống 3-5 ngày. Vận chuyển tôm thẻ giống vào sáng sớm, hoặc chiều mát, sử dụng xe bảo ôn để chuyển giống, tránh sự chênh lệch nhiệt độ, gây sốc cho tôm giống, ảnh hưởng đến tỉ lệ sống tôm bột. Sản xuất tôm giống trong chính vụ, hạn chế sản xuất tôm giống trong vụ phụ, vụ mùa mưa, áp dụng qui trình GAP…trong sản xuất tôm giống nhằm đảm bảo sở hữu nguồn tôm giống chất lượng cao.
Tags: giong tom the chan trang, ky thuat nuoi tom the chan trang, san xuat tom giong, nuoi thuy san