Có lẽ hiếm có cuộc hội thảo nào thu hút sự tham gia của số đông các nhà nghiên cứu về bệnh ở tôm sú nuôi như hội thảo về bệnh trong nuôi trồng thủy sản do Viện nghiên cứu NTTS I tổ chức cuối tháng 2 vừa qua tại Trạm nghiên cứu NTTS nước lợ ở Quý Kim (Hải Phòng). Không chỉ có các nhà nghiên cứu đến từ các cơ sở nghiên cứu khoa học trong ngành như Viện nghiên cứu NTTS I, Viện nghiên cứu NTTS II, Viện nghiên cứu Hải sản, Trung tâm nghiên cứu thủy sản III, mà còn từ các đơn vị ngoài ngành có liên quan như Viện Công nghệ sinh học, Trường đại học Quốc gia, . và cán bộ quản lý của nhiều Sở Thủy sản, Sở Khoa học công nghệ và đơn vị sản xuất thủy sản ở một số địa phương ven biển, đại diện một số vụ, cục, trung tâm của Bộ. Ðiều đó chứng tỏ sự quan tâm của nhiều người đến vấn đề bệnh tôm vốn có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển NTTS không chỉ ở nước ta mà cả ở nhiều quốc gia khác có nghề này.
Và mục đích của hội thảo cũng đã được xác định rất rõ ngay từ đầu, qua lời phát biểu ngắn gọn của tiến sĩ Nguyễn Việt Thắng, Thứ trưởng Bộ Thủy sản, là tìm giải pháp tổng hợp phòng ngừa bệnh là chính, và nếu xảy ra bệnh, phải tìm mọi cách chữa trị .
Bệnh tôm chuyện không phải mới
Từ hơn chục năm nay, tôm sú nuôi bị bệnh và chết là chuyện đã từng xảy ra ở nhiều địa phương nhất là các tỉnh Nam Bộ nơi tập trung khoảng 80% diện tích nuôi tôm của cả nước. Thậm chí, vào giữa năm 1994, bệnh tôm xảy ra rộng khắp các tỉnh phía Nam đã gây thiệt hại lớn về kinh tế và ảnh hưởng sâu rộng về xã hội ở những nơi có bệnh.
Ngay từ năm đó, ngành thủy sản đã đầu tư triển khai chương trình khảo sát nguyên nhân gây chết tôm nuôi ở các tỉnh phía Nam và đề ra các giải pháp khắc phục nhằm đưa nghề nuôi tôm tiếp tục phát triển. Nhiều nguyên nhân gây bệnh đã được xác định : do môi trường, do con giống, do quản lý, kỹ thuật . Cũng đã có hàng loạt đề xuất các giải pháp khắc phục, từ quy hoạch trại giống, tăng cường kiểm dịch, kiểm soát chất lượng giống, xây dựng và hướng dẫn người nuôi áp dụng các mô hình nuôi có năng suất và hiệu quả, tăng cường quản lý môi trường ao nuôi . ấy vậy mà từ đó, bệnh tôm vẫn xảy ra năm này qua tháng khác, làm lao đao bao người dân quê quanh năm giãi nắng dầm bùn nơi bãi lầy cửa sông ven biển.
Báo cáo kết quả NTTS năm 2003 của ngành đã đưa ra vài con số : cả nước có 546.757 ha nuôi tôm nước lợ thương phẩm, trong đó diện tích có tôm nuôi bị bệnh và chết là 30.083ha. Các tỉnh, thành ven biển từ Ðà Nẵng đến Kiên Giang có tới 29.200ha nuôi tôm bị chết nhiều, chiếm 97,06% diện tích có tôm bị chết trong cả nước. Các bệnh xảy ra với tôm cũng vẫn như vậy, chủ yếu là bệnh virut đốm trắng (WSSV) bệnh MBV (Monodon Baculovirus), bệnh do vi khuẩn Vibrio, bệnh do ký sinh trùng, do dinh dưỡng và gần đây xuất hiện thêm bệnh phân trắng, teo gan ở một vài nơi. Ngay tại hội thảo, các báo cáo của các đơn vị nghiên cứu trong ngành đã cho thấy cụ thể hơn về tình hình bệnh tôm, nhất là bệnh virut đốm trắng ở từng vùng trong năm qua.
Kết quả kiểm tra bệnh ở tôm giống nhập về Hải Phòng và Quảng Ninh trong năm qua do Trạm nghiên cứu NTTS nước lợ thực hiện cho thấy tỷ lệ nhiễm virut đốm trắng từ 25 46,6%, trung bình 38,9% (xin lưu ý, tỷ lệ nhiễm cao nhất là tôm giống nhập từ Trung Quốc), tỷ lệ nhiễm MBV từ 43,3 60%. Và trong số 4 nguồn cung cấp giống về cho 2 tỉnh vùng Ðông Bắc Bộ này, có tới 3 nguồn có quá nửa số giống bị nhiễm bệnh MBV. Ðiều này liệu có phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả tất yếu là tỷ lệ tôm thương phẩm bị bệnh virut đốm trắng ở khu vực này từ 30,7-75% và bệnh MBV từ 37,5-57,7%?
Còn ở các tỉnh Bắc Trung Bộ ? Các số liệu do Trung tâm Môi trường và Dịch bệnh (Viện nghiên cứu NTTS I) đưa ra như sau : Thanh Hóa có hơn 40% diện tích nuôi tôm bị bệnh, thường là bệnh, virut đốm trắng, tập trung ở vùng nuôi tôm công nghiệp như Khu công nghiệp Hoằng Phụ, với 70/110ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh. Nghệ An có 9,1 47,8% diện tích nuôi tôm bị bệnh virut đốm trắng; 25,6 30,4% bị bệnh MBV; 25 54,5% bị bệnh đầu vàng. ở Hà Tĩnh, trong số 150ha nuôi tôm bị bệnh, có 67ha bị bệnh virut đốm trắng, trong đó 27ha có tôm nuôi bị chết. ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, cũng có từ xấp xỉ trăm ha cho tới vài trăm ha nuôi tôm bị bệnh, nhiều chục ha bị bệnh phân trắng làm cho tôm còi cọc, nuôi dăm tháng chỉ đạt đến cỡ 80 100kg/con !
Tại các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ, theo Phòng Bệnh học thủy sản (Trung tâm nghiên cứu Thủy sản III), địa phương có tỷ lệ diện tích nuôi tôm bị bệnh thấp nhất là Khánh Hoà (14,3%), cao nhất là Ninh Thuận (52,4%). Tỷ lệ nhiễm bệnh virut đốm trắng ở tôm nuôi tại khu vực này tuy có giảm nhưng bệnh phân trắng, teo gan lại xảy ra hầu hết ở các vùng nuôi trọng điểm như Ninh Hải, Phan Rang, Ninh Phước có những nơi lên tới 90 95% tôm bị nhiễm bệnh, đặc biệt là ở những vùng nuôi trên cát.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu NTTS II, tại các tỉnh Nam Bộ khu vực nuôi tôm lớn nhất của cả nước, tỷ lệ nhiễm bệnh virut đốm trắng trên mẫu tôm có biểu hiện bệnh thu ở đầm nuôi quảng canh cải tiến là 56%, còn bệnh MBV là 50%. Bệnh virut đốm trắng gây chết tôm hàng loạt, tác hại lớn đến năng suất, sản lượng tôm của khu vực.
Và ngay những ngày đầu năm 2004 này, đã có những thông tin cho biết, tại nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long lại đa xảy ra tình trạng tôm nuôi bị chết và bệnh tôm lây lan nhanh ngay từ đầu vụ. Xem ra như vậy, bức tranh toàn cảnh về bệnh tôm không mấy sáng sủa hơn, cho dù biết rằng đã nuôi tôm là luôn tiềm ẩn khả năng xảy ra bệnh. Các mầm bệnh được ém sẵn, và chỉ cần chờ thời cơ là bùng phát !
Còn đó những khoảng trống
Các báo cáo đã gây ra sự tranh luận sôi nổi tại hội thảo. Qua những ý kiến phát biểu, cho thấy còn nhiều vấn đề học thuật cần được trao đổi thêm.
Trước hết, ngay cả đến tên gọi của bệnh cũng còn có sự khác nhau giữa các cơ sở đào tạo, nghiên cứu trong và ngoài ngành. Tiến sỹ Bùi Quang Tề người đã có thâm niên kha khá trong lĩnh vực bệnh thủy sản – đã đưa ra một xêri với 13 tên gọi khác nhau của bệnh virut đốm trắng, và đề nghị thống nhất sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu.
Như đã viết ở trên, nguyên nhân xảy ra bệnh tôm đã được xác định từ lâu, chủ yếu do chất lượng giống không đảm bảo, do môi trường (có liên quan cả đến cơ sở hạ tầng, nhất là hệ thống cấp và xả nước) và do quản lý (cả về kỹ thuật, đầu tư ). Cùng với thời gian, đã biết rõ hơn về tác nhân gây bệnh virut đốm trắng, vật chủ mang mầm bệnh, sự lan truyền của bệnh. Cũng đã có nhiều phương pháp chẩn đoán được áp dụng, kể cả những kỹ thuật hiện đại như sử dụng chuỗi các phản ứng nối tiếp nhau để khuyếch đại số lượng bản sao của một trình tự ADN đích, còn gọi là kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction), hoặc phương pháp lai tại chỗ (In situ hybridisation) . Riêng về kỹ thuật PCR, các thiết bị để tiến hành phương pháp này gần như đã phủ sóng toàn bộ các tỉnh ven biển có nuôi tôm. Vậy mà ngay tại hội thảo, vấn đề được tranh luận nhiều lại là trình tự, nội dung và phương pháp phát hiện virut đốm trắng. Bên cạnh đó là phương pháp thu mẫu. Lấy mẫu theo kiểu nào : chọn lọc hay ngẫu nhiên ? Với cách lẫy mẫu nào sẽ đạt được kết quả kiểm dịch con giống phản ánh đúng và khách quan chất lượng giống? Kết quả đó liệu có còn phụ thuộc vào chất lượng phòng kiểm nghiệm, vào năng lực kiểm nghiệm của người thực hiện ? Chưa nói đến có ý kiến từ một đơn vị sản xuất còn cho rằng có thể lắm, chỉ cần một khoản tiêu cực phí nho nhỏ là có ngay một cái giấy chứng nhận kiểm dịch cho những bao tôm giống chở đi. Và những con giống ấy dù với chất lượng thế nào, có hay không mang mầm bệnh vẫn sẽ vô tư về với đầm nuôi, vô tư bơi lội để đến lúc nào đó lại vô tư bỏ ăn, dạt vào bờ và ngửa bụng, rồi chết !
Xem ra, cái thiếu ở đây là một quy trình chẩn đoán bệnh bằng kỹ thuật PCR được tiêu chuẩn hóa ở cấp độ ngành, mang tính bắt buộc cho mọi cơ sở được giao nhiệm vụ kiểm dịch, để chủ động phát hiện mầm bệnh ngay từ tôm giống, ngăn ngừa sự lan truyền của bệnh trong quá trình nuôi. Ðược biết, một bản dự thảo quy trình chẩn đoán bệnh virus đốm trắng trên các loài thuộc họ tôm He Penaeidae bằng kỹ thuật PCR đang được gấp rút soát xét lại để trình Bộ ký ban hành
Tại hội thảo, các nhà nghiên cứu dễ thống nhất với nhau về phương thức lan truyền bệnh, chủ yếu theo chiều ngang nghĩa là qua nước và thức ăn. Mỗi khi môi trường nuôi bị xấu đi, nghĩa là khi đó các mầm bệnh có cơ hội tuyệt vời để làm bùng phát bệnh virut đốm trắng trên diện rộng. Biết vậy, nhưng việc kiểm soát chất lượng nước cũng là kiểm soát môi trường nuôi tuy đã có nhiều biện pháp được đưa ra : cả cơ học (quạt nước, sục khí, xi phông đáy ao), hóa học (dùng hóa chất, vôi ), và sinh học (dùng chế phẩm sinh học), nhưng môi trường nuôi ở nhiều vùng ngày càng trở nên xấu đi, nhất là với những ao nuôi thâm canh năng suất cao, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của vụ nuôi trước mắt cũng như lâu dài.
Bên cạnh đó, còn một loại đầu vào của ao là thức ăn nuôi tôm. Với một thị trường kinh doanh thức ăn nuôi tôm lộn xộn và bị buông lỏng quản lý, chất lượng thức ăn không được kiểm soát chặt chẽ, cộng với các chiêu tiếp thị theo kiểu sống chết mặc tôm, tiền tôi bỏ túi của một vài nhà sản xuất kinh doanh thức ăn nuôi tôm, và bản thân các loại thức ăn nuôi tôm lại được sử dụng bởi những người nuôi hám thu lợi nhuận theo kiểu ăn xổi , thì đây cũng là một nguy cơ tiềm tàng gây ô nhiễm môi trường nuôi, dẫn đến bệnh cho tôm nuôi.
Thực tế sản xuất đang đòi hỏi phải xiết chặt quản lý ở mọi khâu : sản xuất, kiểm dịch và lưu thông con giống; kiểm soát chất lượng và việc kinh doanh các loại thức ăn, chế phẩm sinh học dùng trong nuôi tôm, đẩy nhanh công tác biên soạn và ban hành những tiêu chuẩn, quy trình và văn bản quy phạm pháp luật cùng các chế tài kèm theo trong từng lĩnh vực.
Các kết quả nghiên cứu khoa học thật đáng trân trọng. Nhưng từ các kết quả đó, việc áp dụng vào thực tiễn xem ra còn một khoảng cách nhất định. Ðiều gì đã làm hạn chế như vậy ? Vai trò của thông tin khoa học, của khuyến ngư, của công tác phổ biến và chuyển giao kỹ thuật đến với người sản xuất chắc chắn sẽ rất quan trọng để tạo ra chiếc cầu nối giữa hai bên bờ này, xây dựng mối quan hệ hữu cơ giữa nhà khoa học và người sản xuất, góp phần đem lại hiệu quả cao và bền vững cho nghề nuôi tôm.
Vĩ thanh
Người viết bài này rất thích thú khi đứng trong một phòng thí nghiệm lát gạch men trắng xoá cùng với một cán bộ nghiên cứu mang trên khuôn mặt thanh tú đôi mắt kính trắng trong, khoác trên người chiếc áo blouse trắng tinh khôi để nghe anh say sưa giảng giải bao điều hay chuyện lạ về bệnh của tôm nuôi. Và, cũng rất ấn tượng với vẻ mặt đầy âu lo của một người nuôi tôm khi anh chỉ cho thấy những cái đốm trắng nhỏ như những bông tuyết bám đầy dưới chiếc vỏ đầu ngực của những chú tôm sú mắc bệnh đang dạt vào bờ ao.