Site icon Kiến Thức Nhà Nông

Bacillus Probiotics cải thiện chất lượng giống chống EMS tại Mexico

Tóm Tắt

Đầu năm 2014, một thử nghiệm để đánh giá ảnh hưởng của một hỗn hợp của các chủng Bacillus trên hội chứng tử vong sớm do vi khuẩn trong giai đoạn ươm giống và chăn nuôi ở tôm đã được thực hiện tại một trại giống thương mại ở Mexico. Việc thử nghiệm các hỗn hợp vi khuẩn Bacillus trong giai đoạn phát triển ban đầu của ấu trùng qua PL3 mang đến sự cải thiện rõ ràng ở tỷ lệ sống của vật nuôi. Nhìn chung, vào cuối giai đoạn thứ hai tỷ lệ tăng trưởng tăng tới PL15, tiếp tục sử dụng khánh sinh giúp tăng số lượng con giống hậu ấu trùng cũng như kích thước của vật nuôi.

Tỷ lệ tử vong sớm do hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (EMS/AHPN) bùng phát 1 cách mạnh mẽ gây tác động nghiêm trọng tới các nhà sản xuất tôm giống ở các nước Châu Á và Mexico. Từ các báo cáo chỉ ra rằng tình trạng này có liên quan mật thiết đến việc quản lý đàn giống bố mẹ chẳng hạn như việc cho ăn giun bị ô nhiễm, các nhà quản lý đang tập trung vào việc đổi mới chất lượng ấu trùng. 

Đầu tư vào việc nâng cao chất lượng ấu trùng là 1 biện pháp phù hợp cần thiết để tiếp cận toàn diện và đạt được tỷ lệ sản xuất tôm mong muốn thông qua sự kết hợp của các biện pháp an toàn sinh học, thả các con giống hậu ấu trùng khỏe mạnh và quản lý các điều kiện nuôi bằng cách kiểm soát dinh dưỡng/lượng thức ăn, trầm tích, chất lượng nước và các cộng đồng vi sinh vật.

Phương pháp EMS

Tại Mexico, viện nuôi trồng thủy sản INVE đang đánh giá các hoạt động của một chất diệt khuẩn thương mại chứa khuẩn Bacillus để chống lại EMS bằng cách cô lập độc tính của khuẩn Vibrio parahaemolyticus nhờ vào đội ngũ các bác sĩ Bruno Gomez – Gill tại Centro de Investigación en Alimentación y Desarrollo (Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Thức Ăn). Nói một cách cụ thể, một kháng sinh điều chế ra sẽ ức chế sự tăng trưởng của 10 khuẩn gây bệnh Vibrio parahaemolyticus.

Các chủng vi khuẩn Bacillus đã được chọn vì khả năng ức chế mầm bệnh, có hoạt động trao đổi chất trong ruột tôm và nguồn nước tích cực, phân huỷ các chất thải hữu cơ nhanh và cải thiện khả năng tiêu hóa thức ăn. 

Việc thực tập chăm sóc con giống để đạt đến một kích thước lớn hơn trước khi thả vào ao nuôi được khuyến khích mạnh mẽ kể từ khi dịch EMS bắt đầu lây sang người. Điều này cũng chưa giải quyết triệt để được vấn đề do EMS/EHPN mang lại. Tuy nhiên, với việc áp dụng các biện pháp an toàn sinh học và cho ăn phù hợp, cũng như việc quản lý nguồn nước, giai đoạn ấp giống này sẽ góp phần cải thiện chất lượng của các con giống hậu ấu trùng. Dù cho là trong ao hay mương, việc tuân theo các quy định về ấp giống đã mang lại hiệu quả, cho phép kiểm soát tốt hơn và ổn định các điều kiện tăng trưởng, thu ngắn chu kỳ vật nuôi và làm tăng số mùa vụ trong năm.

Cách thức tiến hành

Đầu năm 2014, một cuộc thử nghiệm để đánh giá lợi ích của một hỗn hợp chủng vi khuẩn Bacillus trong trang trại nuôi và ấp giống đã được tiến hành trong các điều kiện thương mại tại trại giống Fitmar ở Sinaoa, Mexico. Tỷ lệ con giống sau giai đoạn ấu trùng sản xuất tại đây đã tăng từ 615 triệu trong năm 2010 lên 1.6 tỷ con trong năm 2013.

Trong các trại giống, việc nuôi ấu trùng được chia làm 2 giai đoạn và được xây dựng từ năm 2009. Ở giai đoạn đầu tiên, ấu trùng N5 từ cùng 1 bể đẻ trứng được thả vào 2 ao kiểm soát và 2 ao xử lý ở mật độ 6 triệu con/30 m3. Sau 11 ngày, các con giống hậu giai đoạn ấu trùng P.L 3 hoặc P.L 6 biến thành 2, mương 60-m3 sẽ cho phép con tôm giống phát triển tới mức P.L 15 trong chu kỳ sản xuất 2 giai đoạn. Các chế phẩm vi sinh sẽ được sử dụng trong cả 2 giai đoạn.  

Trong giai đoạn đầu tiên, bể nuôi được làm đầy 50% với nước, sau đó là tảo cho đến khi đầy bể. Ở đầu giai đoạn thứ 2, các mương sẽ được đổ đầy nước và không trao đổi nước trong suốt chu kỳ.

Để tăng cường hệ thống miễn dịch của ấu trùng, một sản phẩm thức ăn bổ sung sẽ được cung cấp vào cuối giai đoạn đầu tiên và trong suốt giai đoạn thứ hai. Các chế phẩm sinh học thương mại được cho vào trong các bể kiểm soát và mương kiểm soát. Hỗn hợp khuẩn Bacillus được dùng trong 2 bể xử lý và mương. Hỗn hợp này được sử dụng khi ấu trùng được thả vào bể và con giống hậu ấu trùng được thả trong mương để đạt tới mức độ đậm đặc 5 x 105 cfu/ml. 

Trong giai đoạn đầu tiên, hỗn hợp khuẩn Bacillus được cung cấp hằng ngày nhằm đạt được 1 mức độ đậm đặc cuối cùng là 1 x 105 cfu/ml. Ở giai đoạn 2 của quá trình nuôi giống, hỗn hợp như vậy được rải bao quát để đạt mức 1 x 108 cfu/ml.

Kết quả

Việc sử dụng một cách chọn lọc hỗn hợp từ khuẩn Bacillus đã mang đến sự cải thiện rõ rệt tỷ lệ sống. Trong giai đoạn nuôi đầu tiên, tỷ lệ sống tăng từ 32 lên 36% (hình 1) 

Cuối giai đoạn 2, sự cải thiện trong tỷ lệ sống dẫn đến việc tăng tỷ lệ tôm có thể được thu hoạch (hình 2). 1.3 triệu con giống hậu ấu trùng đại diện cho tỷ lệ tăng 39% về sản lượng. Hơn thế nữa, hỗn hợp từ khuẩn Bacillus còn giúp cho con giống hậu ấu trùng lớn hơn đến 10% (hình 3).  

Hình 1. Sự sống sót của tôm hậu sản sau khi giai đoạn nuôi đầu tiên.

Hình 2. Số lượng tôm hậu sản sau thu hoạch vào cuối giai đoạn 2 nuôi

Hình 3. Trọng lượng ướt trung bình của tôm sau thu hoạch từ mương điều khiển và điều chế.

Các ứng dụng

Cuộc thử nghiệm cho thấy lợi ích của việc sử dụng 1 cách chọn lọc khuẩn Bacillus trong việc chống lại vi khuẩn gây bệnh Vibrio ở cả 2 giai đoạn đầu và sau trong sản xuất ấu trùng. Mặc dù không có số liệu về lượng vi sinh vật trong cuộc thử nghiệm này, một số chỉ số đã được cải thiện: ruột bị nhiễm bịnh, ức chế và làm giảm tác hại của vi khuẩn gây bệnh Vibrios và tăng hệ thống miễn dịch của vật nuôi.